Chuyện Nỏ Thần Chương 4


Chương 4
Các làng đã vào mùa hội săn.

Những chân bãi ngập nước từ đầu làng trải ra, mới hôm nào còn loáng như mặt đầm, bây giờ đuôi lúa đã rập rờn thành làn rì rào gió thổi. Những đàn chim chích, chim bạc má bay về, sà xuống ríu rít bắt sâu cắn lúa. Quanh nhà, sực nức mùi hoa chanh, hoa bưởi. Con chim nhẹ nhàng lẩn vào bóng hoa. Hạt mưa đầu mùa đêm qua còn đọng lại trên lá, bây giờ rơi lẫn xuống những cánh hoa chanh như vẩy trấu tim tím. Chim tu hú cất tiếng gióng giả. Vào đầu mùa còn râm mát, đâu cũng nhàn rỗi đợi gặt hái. Sáng sớm, các làng đổ đi săn. Tối lại về thui hươu nai, ăn uống rồi vui tập roi, tập vật. Đâu cũng một quang cảnh ấy. Dạo ấy, chỉ có hai anh em Đống và Vực mới về với mẹ ở nhà. Bố bận việc quân trong thành trên Kẻ Chủ. Đống đã xốc vác chẳng khác bố ngày trước. Vực thấp bé nhưng lẳn mình trắm. Ngày nào cũng đi sông nước như chạy nhảy trên bộ. Tinh mơ, Đống ra trước ngõ, tay cầm tù và. Đống giơ nghiêng ốc, đưa lên miệng, thổi một hơi dài. Tiếng ốc rền xa. Lác đác, tiếng đáp lại. ấy là các nơi đã biết hiệu cùng nhau sắm sửa ngày săn. Rồi anh em Đống vắt lên vai bộ lưới săn chất cao hơn đầu. Tay xách lao, khoác nỏ, lưng giắt lủng lẳng đầy khít ống tên. Mẹ ngồi dệt trước cửa. Cuốn cửi sợi tơ chuốt quấn vào lưng đã dày một ôm. Mẹ đứng dậy, ngừng tay ném thoi, cởi cuốn đặt xuống, bước ra xe thêm chỉ. Quả dọi đá kéo sợi tơ càng quay tít tròn. Mẹ nhìn Đống và Vực xăm xăm đi, nói theo:

- Nghe hươu về kêu ở rừng trám đêm qua nhiều đấy.

Các đầu ngõ đã lố nhố người ra, tay lăm lăm ngọn giáo. Hai người khiêng bộ lưới săn hổ săn gấu to như chão. Mỗi lúc càng đông. Cả nhà cả xóm đi phường săn. Người tụ lại một đám, ngóng về phía rừng báng bờ sông Lú đợi hiệu cồng. Ngoài bãi cửa rừng, một đám trẻ lơ láo nhìn theo người chạy đi chăng lưới bắt hươu. Đống bước qua, nói to:

- Không đi chia phần thịt hươu với phường săn a? ở nhà làm gì?

Tiếng lao xao nói:

- Đêm qua có sấm mới, cuốc ra nhiều lắm.

Đống và Vực nhớ đương mùa bẫy cuốc. Mới năm trước, mùa này, hai anh em với các bạn lứa tuổi còn mê mải làm bẫy cuốc. Cành lá móc diều sum suê cắm đầu bãi cỏ. Sáng sớm, chập tối, khói bếp trong xóm lan ra, bay là là như sương. Mỗi tàu lá một đứa ngồi núp dưới, bắt chước tiếng cuốc gọi nhau: quắc... quắc... Những con cuốc đen đốm trắng béo mượt mà chui vào chỗ cành móc diều có tiếng "quắc quắc". Người núp sau tàu lá chỉ việc giơ tay nắm từng con vừa bay nhảo tới. Bây giờ Đống và Vực chê bắt cuốc là trò chơi trẻ con rồi. Đến lúc phường săn đã vào hết trong rừng. Làng vắng ngắt. Chỉ còn mấy em bé gái tha thẩn ra bờ bãi nhặt cua, bắt nhái. Trong nhà, các bà già dệt cửi đánh chỉ. Những con dọi đá quay ra tận đầu ngõ, chỗ đám trẻ đương xúm xít vặt lông, thui cuốc. Khói um lên cây bưởi. Đàn chim bạc má vừa bay vào, lại hốt hoảng nhún chân lao đi. Hoa bưởi rụng lốm đốm trắng mặt cỏ. Đám trẻ ăn thịt cuốc rồi hết cách chơi. Thế là cùng nhau ùa vào rừng theo phường săn. Những đàn chó săn con đen, con vện, cung cúc chạy, rúc đánh hơi từng bụi tìm vết hươu. Tiếng chó sủa lắc rắc, nhúc nhắc. Phía nào cũng nghe, mỗi lúc càng xa. Rồi bỗng nhiên các góc rừng nổi tiếng cồng. Tiếng cồng như âm u từ trong lòng đất. Thoạt nghe tiếng đục lờ tận đâu rồi cứ vang dần. Đến lúc đầu rừng nào cũng nổi cồng, giục giã, dồn thúc. Mọi người vác lưới à à chạy tỏa ra. Người cầm giáo xỉa tới tấp vào các lùm cỏ. Mỗi cánh lưới chăng dài căng qua một phía. Mấy chục người, cách quãng lại kéo một mảng quây tròn vây một vùng rừng.

Tiếng cồng đuổi các con thú trong rừng hoảng chạy. Những mảnh lưới, những ngọn giáo, những tay nỏ chỗ nào cũng nhấp nhô, lủa tủa. Tiếng chó sủa dẫn người vào mãi trong rừng rậm. Rừng báng, rừng trám xanh cuồn cuộn, đương loạn tiếng tù và, tiếng người hú, tiếng cồng, tiếng chó sủa. Như cả một dải bờ sông bên này các làng đã vào phường săn. Những tiếng khua khoắng hò la cứ dồn dần ra bờ sông. Người lưới, người xách giáo bủa thành vòng vây áp ra tới mép nước. Chốc lại thấy một con nai hoảng hốt, lõm bõm bơi qua sông. Một con hươu đã thoát sang được bờ cát bên kia. Hươu đứng ngơ ngác nhìn lại. Rồi bỗng chạy bay biến vào bãi ngô lủa tủa cao ngập đầu người. Các đám phường săn lấm như vùi từ các cánh rừng đã trở về. Người nào cũng mồ hôi ròng ròng thấm ướt khố như lội dưới sông lên. Đòn ống trĩu trên vai người trước, người sau. Những con nai bị trói chổng bốn vó. Có con to, phải bốn cái đòn lồng vào khiêng mới xuể. Những con chó săn lúc nãy hăng hái nhảy xuống nước. Con vện, con đen ướt lướt thướt. Từ sáng, đã mệt, mõm lê xuống đất, đụng cả vào chân người. Xúm xít người xuống chọc tiết nai dưới bờ sông. Trước cửa nhà Đống, mấy con nai được khiêng lên, lẳng xuống đấy, đợi thui. Đến tối, càng nhộn nhịp. Đám các cô giã gạo đứng chày đôi. Những cối giã gạo đêm cốt lấy nhịp chơi. Chày khua vào vách gỗ, vang tiếng cung kênh, cung kênh rộn rã. Tiếng chày vóng lên như tiếng chiêng đúm đánh đôi. Tiếng chày lóng đôi vui tai. Bọn trai làng đương giội nước làm lông nốt con hươu, cũng phải cất lời "hầy dô", như đám nhà chài đương đẩy mảng trên sông Cái. Các lão bà nhai trầu phóm phém vào bắc bếp đồ xôi. Cuối bãi, đám thui nai đã lên lửa. Các cụ phường thui vốn khéo có tiếng thui trâu đánh giặc từ hồi chạy Tần. Các lão ông vẫn rắn rỏi quắc thước lắm. Ông lão cầm chiếc mo nang, phảy vào nạm than rơm hồng rực.

- Nhẹ tay thôi, không thì cháy hết da. Cái giống nai, bì mềm như da gà. Quá lửa, khét ngay.

Lúc nãy, nghe xa có tiếng sấm rền, mấy ông lão ngước nhìn trời:

- Thong thả, cứ thong thả.

Sấm mới như người ta sôi bụng. Tối nay rằm, có thịt nai chén, hội võ hội hát suốt đêm cũng được. Mọi việc cũng cứ sắp sẵn xong cả trước lúc trời tối. Mấy chiếc hũ đại đã được khiêng đến. Cái chĩnh, những cần trúc, chiếc sừng trâu đong nước được bày ra. Vò nếp để các lão bà nhấm nháp ngồi xem vật, xem hát cũng đã được xách tới. Hôm nay có trăng sớm. Những con voi đã vác vào một đống củi. Rồi voi lầm lũi, hì hục vươn vòi khiêng nữa về. Xong việc, cả mấy con nằm phủ phục cạnh đống củi. Như đương xem đám người bộn rộn. Hay voi ngủ, không biết. Lũ trẻ cứ chạy rối lên. Chẳng mải ăn bao nhiêu, mà thích dọn dẹp. Để chúng được xem đấu roi, võ vật. Một lũ vừa ôm rơm đến cho đám thui. Bọn kia đã nhanh nhảu vác những cây roi vẫn gác dựng lên đằng đầu nhà. Mỗi roi, cả một cây tre đực dài, hun từng đốt, thẳng đuỗn. Vừa khuân vừa nghịch. Hai đứa gác chéo ngọn roi, chặn nhau, vào đấu. Tay nọ gạt tay kia, ngã cười choe choé. Vầng trăng đã nhô trên bãi ngô bên kia sông. Thoạt trông trăng, nhợt nhạt lướt thướt như vừa từ mặt nước chui lên. Rồi cứ trong óng dần. Đến lúc đã vằng vặc sáng vàng như chiếc chiêng đồng nhà trời. Đám ăn uống. Đám thi rượu cần. Đám gõ lóng cất tiếng hát. Đám sắm sửa ra đấu roi. Chỗ nào cũng bóng trăng in ngần. Đống củi không phải lên lửa nữa. Giữa bãi, hai tay Đống nắm cây roi, từ nãy đã gạt ngã được mấy người. Trong bóng trăng, bắp vai Đống nổi lên. Có người hạ ngang roi giữ thế. Cũng không chịu được lúc hai roi áp vào nhau, đành buông tay, kêu:

- Thôi! Thôi! Đúng con ông Đô Nồi!

Xung quanh cười ầm. Lúc ấy, có mấy thớt voi lạ tiến vào lù lù như những cây rơm đội ánh trăng đi. Tiếng reo dậy lên từ ngoài.

- Ông Đô đã về! Ông Đô đã về!

Ông Đô Nồi không đợi voi cong vòi lên đỡ, đã nhảy thẳng trên lưng voi xuống. Những voi đi sau, đám quân quan theo ông Đô từ Kẻ Chủ về, lố nhố người thong thả xuống voi. Ông Đô Nồi nói to:

- Về gặp cái ăn tốt tươi thế này là điềm lành trời cho rồi.

Ông Đô Nồi đến chắp tay vái chào các cụ đương ngất ngưởng với chiếc sừng trâu ao nước cầm trịch giữa mười chiếc ống trúc cắm trên chĩnh rượu cần. Hai bên thi tài ngồi xếp bằng, năm trai năm gái. Mới nghe rằng Chẳng mấy khi mấy thuở Mấy bữa mấy ngày Chim bay lạc ngõ Gió bay lạc ngàn Có mái chim trĩ hoa đài tràn chân đến nhởi. Một cụ già nhất đám cung kính hai tay bưng đến trước mặt ông Đô Nồi một sừng rượu. Đống và Vực đã bỏ bãi đấu, bước vào vái chào bố. Ông Đô Nồi nói:

- Có đi ra mới biết thiên hạ còn lắm thế roi nòi. Mỗi nơi lại có những miếng lạ. Roi người kẻ Ninh Hải khác roi trong Cửu Chân. ở Dương Tuyền lại khác nữa. Không phải chỉ nhất roi Chiêm Trạch sông Lú đâu.

Mọi người xúm lại, nghe ông Đô Nồi chuyện, cứ trầm trồ:

- Ồ là vậy! ồ là vậy!

Ông Đô Nồi hào hứng:

- Lại nhiều tay nỏ giỏi lắm.

Rồi kể:

- Ông Đô Lỗ vừa mới nghĩ ra được tên mũi đồng có móc câu. Mỗi lòng máng nỏ lắp một dãy mười tên. Dây nỏ bện da trâu, không khoẻ không giương nổi. Một cánh bắn ra cả mười mũi.

- Ghê thật! Ghê thật!

- Các lò vật người ta cũng nổi lắm. Miếng mói, miếng sườn khác lò ta. Lại còn móc chảo, vỉa lộn cối, miếng thần miếng biến không biết đằng nào trở tay.

Ông Đô Nồi bảo Đống và Vực:

- Ở lò nhà, học được miếng các cụ truyền lại, tưởng đã là tận cùng lò võ. Kịp ngày cố Ông Trọng dạy cho miếng roi, miếng vật nòi, lại tưởng thế là hết các lò rồi. Bây giờ mới biết không phải vậy. Các cõi nước ta ở đâu có người, đấy có người tài, không biết thế nào là hết. Các con phải học như thế mới được.

Ông Đô Nồi lại nói:

- Rồi mai kia lên Kẻ Chủ, nơi sáu quân tụ hội, ta phải ra sức.

Cụ lão nhất đám hỏi:

- Ông Đô cho hai chú lên ở hẳn Kẻ Chủ?

Ông Đô Nồi nói to:

- Tất cả làng hai bên sông đều lên Kẻ Chủ. Tôi về đây là vì việc ấy.

Mọi người nhao nhao:

- Thế nào? Thế nào?

Ông Đô Nồi ngửa mặt, tu cạn sừng rượu, rồi chẹp chẹp miệng:

- Cái nếp này chưa ngấu, còn hơi sượng. Nấu rượu không vội được, mà việc gì cũng không vội được. Làng nước đã có tin về quân Triệu đương lăm le bờ cõi ta chưa?

Một người nói:

- Dẫu biết rồi, cũng không lật đật, ông vừa bảo thế mà. Mai hẵng lập phường săn vào rừng lấy thịt nai vui với Nồi hầu về chơi làng đã.

Nhiều người cười ồ:

- Phải đấy, phải đấy.

Ông lão giơ tay, kêu:

- Ngày trước quân Tần phạm vào ta đã phải khốn đến thế, bọn Triệu giương mắt ra mà không biết gương tày liếp sao!

Ít hôm sau, người dọc sông Lú với người các nơi lũ lượt kéo về Kẻ Chủ. Cả voi, ngựa, trâu kéo xe quệt.

Mấy ngày liền, xe trâu đưa lên từng bồ tên nỏ, giáo mác, đinh ba. Người đâu đổ ra lắm thế, cơ man người. Không phải chỉ có người một vùng. Mà nghe tin quân Triệu dòm ngó, các nơi rầm rập về giữ Kẻ Chủ. Tường thành đá ong vàng rực uốn vòng tròn lớp trong lớp ngoài, xoáy cao lên. Người đi khuất rồi, lại gặp lại bóng trên bậc đá quanh co. Cứ cách sải tay, đến một bệ đá. Những cánh nỏ hun đã lên nước bồ hóng, một loạt nghiêng lỗ chỗ một khoảng trời. Lại thêm nỏ mới của ông Cao Lỗ, lòng máng nằm mười mũi tên sáng choé. Những toán quân đeo nỏ rầm rập lên. Đi lẫn vào quân quan, lũ lượt những người trong thành ngoài thành. Người quảy gông cỏ, người vác nước, người xách giáo. Người tất tả theo con ngựa chở trên lưng ống vầu đựng nước sóng sánh với bước vó cất. Người theo những thớt voi, những đàn ngựa thồ nỏ, áo giáp da trâu, những ró gạo nếp... Voi ngựa từ các nơi xa về. Người lần lượt đóng cọc dựng lều, chăng dây chỗ tàu ngựa, bãi voi rồi chia lên các ngả trên mặt thành. Người người chen chân mọi công việc bộn rộn. Những cây gạo vừa trổ hoa, khắp cành xù xì bỗng rực rỡ đỏ. Ngã năm đường vào chợ, người lấy nước sớm xúm quanh các khuôn đá bờ giếng thơi, đương thì thào ghé tai. Một người vác nước dựng cây vầu đứng nghỉ, tựa vào cổng thành. Người quảy gông cỏ dừng lại bên khuôn đá miệng giếng.

- Nghe nói quân Triệu đã vào đến Núi Trâu rồi, có phải vậy?

- Ạ là vậy. Cũng nghe thế.

- Có gì quản ngại không?

- Giặc đến thì vua chủ cho ta đánh giặc. Chẳng có gì quản ngại cả.

Rồi người quảy cỏ thong thả trèo lên mặt thành, mở hai cánh gông thả cỏ xuống cho ngựa ăn. Người vác nước xuống bậc đá, đi khuất vào trong phường. Phía phường người ở, có chợ. Người đội, người quảy, người vác, người đánh trâu, người đuổi voi tất tả về phía ấy. Vẫn như mọi ngày ở phường ra chợ. Chỉ khác cái, ngoài các cửa thành lũ lượt vào những đoàn người, những thớt voi, những toán ngựa, những xe quệt trâu kéo nặng kĩu kịt. Quân quan các cõi đã về giữ thành, chập tối còn tấp nập.

Người ra lấy nước ngoài giếng lại hỏi nhau:

- Có đáng quản ngại không?

- Nó cũng bằng nước lũ thôi. Quân Tần đấy, ta biết rồi.

- Là thế nào?

- Là dữ đến mấy thì rồi lũ cũng ra bể cả...

Quân Triệu đương kéo đi đông đặc bên kia sông. Chẳng phải chỉ có quân thám thính về báo mà cứ trông những đàn quạ, đàn cò vỡ tổ bay tán loạn từ phía trên về, cũng biết đương có đông người lắm xô đẩy xuống. Mặt nước và các bờ tre, bờ rừng đã xao xác cả. Trên mặt thành, vua Thục oai nghiêm đứng xắn một bên ống tay áo. Tay kia rút dải khăn chàm trên đầu quấn xuống làm thắt lưng. Tóc xõa liền với hàm râu quai nón. Vua Thục chống tay vào bậc đá nhìn ra. Ngày đêm, quân quan đã sắp đặt quanh thành. Vua chủ hội các tướng lại, chia bọn. Mỗi cánh trấn mỗi phía. Ba anh em Phạm Chung, cửa tây. Bố con Nồi hầu đi với tướng quân Cao Tứ. Các ông Đinh Toán, Đinh Công Tuấn sang mặt bắc, cùng với những tay nỏ người Đồng, người Dao, người Cật trên ngược về. Những ống lệnh dựa vào tường thành. Đấy là những cây bương ngộ đã phơi nỏ, kín hai đầu vấu. Đốt bương tức hơi vỡ mắt, cái ống nỏ rền như sấm lệnh, làm lệnh. Cao Lỗ bước ra, tay xách chiếc chiêng đại. Các tay nỏ đã lên chi chít như một dải chông cắm mặt thành. Mỗi quãng, một quan lạc tướng đứng nghiêm chăm chắm chờ chiêng lệnh.

Trên thành cấm. Xung quanh thềm đá, khói trầm đen sẫm bốc nghi ngút. Giữa bệ, cỗ nỏ thần uy nghi như con voi to nhất đàn phủ phục chầu ra. Lòng máng nỏ dài mười sải, vành tròn một ôm bằng cả khuôn mặt cái trống đại. Một hàng tên cột đồng to như những cây gỗ mỡ, sáng loáng, nhô đầu trên cánh nỏ. Mỗi bên hai mươi quân nỏ cao lớn, cởi trần, quì một gối. Bốn mươi lực sĩ hai vế, dang tay kéo nỏ. Mỗi cánh nỏ dài bằng cây luồng ngộ, ghép mảng nửa ống một buộc ken thừng da trâu như chiếc cột vút đầu, nặng mà dẻo lạ lùng. Hai đầu cánh từ từ vít xuống. Đến lúc dây nỏ khớp được vào máng, cả tám mươi cánh tay lực sĩ kiệt sức, ngã cả ra. Một lúc sau, mới đứng dậy được. Mấy chục đô khác đã lại vào túc trực thay tay sẵn bên bệ đá. Vua Thục hỏi Cao Lỗ:

- Ông xem ta cho chiêng lệnh hạ nỏ đã vừa chưa?

Cao Lỗ nhìn ra rồi nói:

- Đợi lúc quân Triệu bắt đầu lội, hẵng ra tay.

Tiếng quân Triệu hò hét. Nghe ầm ầm chuyển động như cơn dông đến bên kia sông. Cao Lỗ cung kính chắp tay:

- Vua chủ cho lệnh.

Vua Thục phất tay áo. Cao Lỗ quay ra, lên đứng trên mỏm đá đầu tường thành, giơ cánh tay đánh một dùi vào núm chiêng. Bốn góc thành nổi lên những tiếng chiêng lệnh nối theo. Vua Thục bước lên bậc đá, đặt tay vào lẫy nỏ. Những mũi tên xé gió bay ra, tiếng oàng lên như sét đánh liên tiếp. Nỏ bắn hết sức sầm nhiệt, náo động cả bốn phía mặt thành. Trên thành cấm, mỗi toán lực sĩ kéo cánh nỏ kiệt sức ngã lăn ra, lập tức, các lực sĩ khác xô vào. Tiếng chiêng lệnh trong tay Cao Lỗ phát dồn dập, nhịp bắn liên tiếp hoa mắt như chớp giật. Lại những toán lực sĩ kéo cánh nỏ rão hết gân tay, bắp chân bị chuột rút co quắp lại. Toán ấy chưa dậy được, toán khác đã vào vực ra. Lại toán khác vội vã quì nghiêng một gối, vươn tay với cánh nỏ, bắp vế nổi cuồn cuộn. Chiêng thúc càng liên tiếp, dào dạt. Dây nỏ vừa khớp được vào lòng máng, những lực sĩ đã căng sức, đờ mắt, mặt tái mét, ngã ra. Chiêng lại thúc dồn. Không kịp lôi những người ngã nữa. Những toán khác nhảy ngay vào quì chen giữa những người vừa ngã ra, vươn tay kéo nỏ. Người vít cánh nỏ tới tấp, xung quanh ngổn ngang những người nằm thở. Mấy chục lực sĩ khác đã nhô vào... Người chồng đống lên nhau vào kéo cánh nỏ. Cũng lúc ấy, khắp các mặt thành, từng làn tên theo nhịp trống thúc, vun vút. Những lằn nỏ nối tiếp bắn ra, mờ mịt thành từng làn sương phủ khắp mặt sông. Bên kia sông, tiếng quân Triệu đương náo động như những trận mưa rào xô xuống đằng ấy. Bỗng nhiên, lặng không -như đám mây lặng lẽ tan. Suốt tận chân trời đục mờ, chỉ còn thấy những cánh bãi xơ xác cỏ lau. Đôi chỗ, nhô ra những cây gạo hoa đỏ giơ cành lõa lợi như máu. Hai con ngựa lạc lõng giữa sương mù. Hai con ngựa cất vó loạng quạng. Cả hai người cưỡi ngựa phóng chạy chết. Không trông thấy nhau. Không nhận ra nhau. Đến một quãng trống trước mặt, giật mình ngỡ tới bờ sông. Hai người nhảy xuống ngựa, quờ tay ra lần tìm đường.

- Trời cao đất dày ơi! Trời cao đất dày ơi!

- Ai đấy?

- Im im. Có tiếng ngựa đương đuổi theo?

- Đây đã qua Vũ Ninh rồi.

- Nhưng cũng chưa phải chỗ đứng lại được.

Hai người như hai chiếc bóng nửa mờ nửa tỏ trong khoảng không. Ngơ ngác. Nghe. Chờn vờn. Rờ rẫm. Một lúc thật lâu. Bốn phía rùng rợn lặng im.

- Có nhớ các quan ở Phiên Ngung ta còn bao nhiêu quân. Kho binh lương trữ được thế nào? Thục Phán! Thục Phán! Nửa năm nữa, nửa năm nữa thôi, tao quyết lại hỏi tội mày. Đàn ngựa lại chạy. Vùng chân trời xám thẫm đùn đùn ập lại. Các làng bên này sông đã nhìn ra đấy không phải cơn mưa đùn lên mà là đám ngựa đen kịt. Những con ngựa sống sót đã chồn rục gối mà chưa qua cơn sợ. Không biết đương cất nước chạy hay chân đã khập khiễng. Cứ xốc lên rồi lại chúi xuống. Đàn ngựa cuồng chân, chùn chân, người cũng không thúc lên được, cứ luống cuống quanh quẩn. Bụi đất đỏ càng lầm lên. Mãi đến lúc đàn ngựa chui ra khỏi đám bụi mù mịt người ta mới trông thật rõ thấy những con ngựa tan đàn ở đâu, chạy lạc tới. Rồi đàn ngựa ấy cuốn cả vào vòm trời tối đen. Không một đốm lửa, không thể nhận ra được đâu là bãi ngô, nương dâu, dòng sông. Ngôi sao hôm lóng lánh trên bóng đêm âm u phẳng lặng. Chỉ có ở dưới sông trông lên mới thấy nhấp nhô bóng ngựa loạng choạng tới.

- Dừng lại đây, dừng lại.

- Không còn đường nào đi được. Sông chắn mất lối rồi.

- Thôi, thôi.

- Cấm lửa.

- Đứa nào đốt lửa, chém ngay. Giữa lúc ấy, trong vùng trời mù mịt, bốc xanh lè suốt một dải cả nghìn vạn đuốc đóm đằng kia chập chờn, vùn vụt đến. Gì thế kia? Người đuổi! Người đuổi! Quân Thục đuổi ta kia!

Từng đám người ngựa rú lên, ngã vật. Những đốm sáng xanh miên man ào đến, xanh lạnh rợn qua trên mặt, trên đầu.

- Đom đóm! Đom đóm!

Vô vàn con đom đóm đang bay qua, như đuổi người. Tiếng hoàn hồn kêu lên:

- Đom đóm, đom đóm!

Nhưng có người vẫn nhắm mắt, la thất thanh.

- Trời ơi! Chết mất! Chết mất!

Lát sau, cả trận đom đóm sáng xanh lại lặn vào bóng tối.

Rồi, chỉ một lúc, đám người ngựa lử lả trên bờ sông đã lặng như không. Vừa còn nghe tiếng móng ngựa gãi muỗi cột cột, bỗng chốc đã im hẳn. Mùi hôi người hôi ngựa bốc lên nặng nề. Như cả đàn voi, đàn trâu quây lại ngủ giữa rừng. Trên mặt sông, chợt nghe tiếng nước rả rích lạ tai. Không phải tiếng vỗ bờ. Mà nước mạn thuyền óc ách, cứ soàn soạt một dải dài. Nhiều thuyền đương từ phía bờ bên trổ ra. Từng toán người rời thuyền, từ mép nước đi lên. Lần lần về phía mùi nồng nặc mồ hôi. Tiếng ngáy rền rền. Lúc rống. Lúc nức nở. Những tiếng quát như giựt bóng tối lên. Những phát tên mũi đồng vút đi, sáng loè, như cả trăm ngôi sao đổi ngôi xiên ra một lúc. Trước mặt, vỡ tan tiếng ngựa hí, người rống. Tiếng òng ọc máu phun. Tiếng gào khóc. Tiếng hét. Tiếng vó ngựa đập, ngựa vừa chạy vừa hộc ra những tiếng rùng rợn trong trời tối thui. Không biết cứ thế chạy đi đâu suốt đêm, hay đến chỗ nào. Người ngựa quân Triệu rụi xuống từng đám.

 

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/51652


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận