Tài liệu: (Achille) Claude Debussy (1862-1918)

Tài liệu
(Achille) Claude Debussy (1862-1918)

Nội dung

(ACHILLE) CLAUDE DEBUSSY (1862-1918)

 

(ACHILLE) CLAUDE DEBUSSY là nhà soạn nhạc vĩ đại người Pháp sinh tại Saint Germainen Loye ngày 22-8-1862, mất ngày 25-3-1918 tại Paris. Âm nhạc của ông đem đến một dòng thơ mới với âm giọng luôn thay đổi, trở thành bản sao hoàn hảo của trường phái ấn tượng của Pháp. Bà Mauté de Fleurville, mẹ vợ nhà thơ Verlaine, dự định sẵn cho ông vào học tại Nhạc viện Paris. Cậu bé Debussy được nhận vào học khi lên 10, và học tại đó cho tới năm 1882. Năm 1880, bà Marmontel giới  thiệu cậu với quý bà Nadeshoki Von Meck, người bảo trợ của Tchaikovsky. Bà Von Meck đã mời Debussy tới Interlaken rồi sau đó thăm Rome, Naples, Fiesole. Trong suốt mùa Hè 1881-1882, Debussy ở lại trong gia đình bà Von Meck tại Moskya. Tại đây, ông làm quen với các bản giao hưởng của Tchaikovsky. Tuy nhiên, ông không cảm nhận được hết giá trị âm nhạc của Tchaikovsky mà quan tâm nhiều hơn tới phong cách riêng của Modes Mussorgsky. Sau đó, ông quay trở lại Pháp và bắt đầu kết thân với quý bà Vasrlier, vợ của một kiến trúc sư Paris và là một ca sỹ nghiệp dư. Debussy thực hiện buổi ra mắt đầu tiên với tư cách một nhà soạn nhạc tại Paris năm 1882, tại buổi hòa nhạc do nghệ sĩ violon Maurice Thieberg tổ chức.

Tháng 10-1880, ông theo học một lớp sáng tác của Ernest Guiraud tại Nhạc viện Paris với hoài bão giành giải Grand Prix de Rome. Sau khi kết thúc khóa học, ông giành giải Nhì của giải thưởng Grand Prix de Rome vào năm 1883. Cuối cùng, vào năm 1884, ông đã đoạt giải Nhất Grand Prix de Rome cho khúc cahtate L’Enfant prodigue (Thần đồng). Khúc cantate này được viết theo lối thi vị đầy mơ mộng nhưng dè dặt, phản ánh khuynh hướng của chủ nghĩa lãng mạn pháp. Trong suốt thời gian lưu lại Rome, ông đã sáng tác bản hợp xướng Zuleima (1885-1886) và bắt đầu sáng tác một khúc cantate khác có tên Diane au bois (Diane trong rừng), cả hai sáng tác này đều không được lưu lại.

Tổ khúc hợp xướng với dàn nhạc Mùa Xuân (Printemps) ra đời năm 1887 chỉ nhận được sự lạnh nhạt của công chúng. Do vậy, ông tiếp tục sáng tác khúc cantate khác La Damotselle élue (1887- 1889), ngay lập tức đã giành được sự ưu ái trong giới nhạc sĩ Pháp. Năm 1888, Debussy thăm Bayrouth, tại đây ông được nghe tác phẩm Parsifal  & Die Meister singer von Numberg lần đầu tiên, song lối khoa trương ầm ĩ của Wagrler không bao giờ khiến ông ngưỡng mộ. Điều khiến ông thật sự quan tâm sâu sắc là âm nhạc phương Đông mà ông được nghe tại Triển lãm thế giới ở Paris năm 1889. Ông bị mê hoặc bởi những hợp âm đối nghịch của nội dung với chủ đề và những sắc thái nhạc khí mới được chính những nghệ sĩ bản xứ thể hiện thành công. Ông tìm thấy ở đây mối liên hệ bên trong giữa âm điệu phương Đông với vần thơ của các nhà thơ ấn tượng đương thời Pháp như: Mallarmé, Verlaine, Baudelaire và Pierre Loiys.

Những dòng nhạc ấn tượng ngoại lai và những vần thơ hình tượng Pháp được liên kết thể hiện trong tác phẩm thanh nhạc của Debussy như Cinq poèmes de Baudelaire (Năm bài thơ của Baudetaire, 1887-1889); Ariettes oubliées (Những khúc Aria bị lãng quên, 1888); Trois mélodies (Ba giai điệu, 1891) và Fêtes Galantes (Lễ hội Galantes, 1892). Ông cũng viết Proses lyriques (Những tác phẩm văn xuôi trữ tình, 1892-1893). Về piano, ông sáng tác bộ tổ khúc Bergamasque (1890-1905), trong đó có bản Claire de lung (ánh trăng) nổi tiếng.

Năm 1892, ông bắt tay sáng tác tác phẩm nhạc khí Prélude à I’après-midi d’un faune phổ thơ Mallarmé. Tác phẩm là một bức tranh về âm thanh tinh tế với điệu séquences tự do mang âm hưởng huyền bí và được trình diễn lần đầu tại Paris năm 1894. Ngay sau buổi trình diễn, một cuốn sách chuyên đề đã cảnh báo khán giả rằng nội dung chứa đựng những yếu tố nhục dục mà có thể tác động xấu đối với nữ thanh niên. Đúng thời điểm đó, Debussy tham dự buổi trình diễn vở kịch Pelléas et Mélizande của Maeterlinck. Vở kịch thực sự gây cảm hứng cho ông viết nên một tác phẩm cho piano. Năm 1893, vở Trois Chansons de Bilities ra đời phổ theo bài thơ vần của Louis đánh dấu sự xuất hiện một khuynh hướng sexy - tự do trong âm nhạc. Tác phẩm tiếp theo là Les Chansons de Bilities (Những khúc ca về Bilities) cho đàn thụ cầm, hai kèn và celesta (1) được ra mắt tại Paris năm 1901. Trong hai năm 1892 và 1899, Debussy sáng tác ba dạ khúc cho dàn nhạc: tác phẩm Nuages (Mây), Fêtes (Lễ hội) và Sirènes (Nàng tiên cá). Với vở opera Pelléas et Mélisarde, Debussy được thừa nhận vị trí đứng đầu trong số các nhà soạn nhạc người Pháp. Lần đầu tiên, năm 1902, tại Nhà hát opera Comique, sau nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến việc phản đối công khai của Maeterlink, người phản đối vai Mélisande được giao cho giọng nữ cao người Mỹ Marry Garden. Theo ông, chất giọng của cô này gây chói tai, ông muốn cô tình nhân của mình, cô Georgette Leblank sẽ là người đầu tiên thể hiện vai Mélisande. Vở opera thực sự gây tranh luận gay gắt trong giới nhạc sỹ Pháp và giới văn học. Báo chí cực lực chê bai. Arthur Pougin, một nhà phê bình âm nhạc lão thành đã viết: “Nhip điệu giai điệu, giọng hát, tất cả những thứ này chưa được thấy ở quý ngài Debussy. Thật là một sự kết hợp lệch lạc, kệch cỡm những tiến bộ đáng yêu của bộ ba trong chuyển động song song, quãng 5-8-8 thực sự ấn tượng, hợp âm nghịch 7,9 được phụ thêm bởi chất giọng nữ cao,… dứt khoát tôi sẽ không bao giờ chấp nhận lối âm nhạc vô tổ chức này!”.

Tác phẩm quan trọng tiếp theo của Debuss là tác phẩm La Mer (Biển), được hoàn thành trong chuyến ghé thăm nước Anh 1905. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại Paris cùng năm đó. Giống như khúc tứ tấu cho đàn dây của Debussy, tác phẩm vận dụng chủ đề đơn, bao gồm ba phác thảo giao hưởng: De I’aube à midi sur la mer (Từ bình minh tới bóng đêm trên biển), Jeux de vagues (Nô đùa với sóng) và Dialogue du vent et de la mer (Đối thoại của gió và biển). Tác phẩm La Mer nhận được những lời chỉ trích thậm chí còn nhiều hơn so với Pelléas et Mélisande. Nhà phê bình người Mỹ Lours Elson tiến xa hơn bằng việc gợi ý rằng đầu đề nguyên thuỷ phải là ''Le Mal de mer'' và rằng chương cuối cùng miêu tả việc bắt giữ quá ư bạo lực.

Để tổng kết toàn bộ những đánh giá phê bình về Debussy, một tuyển tập nhan đề La Cao Debussy được phát hành tại Paris năm 1910, chứa đựng những đánh giá về Debussy như là một nhạc sỹ (déformateur musical) đang chịu đựng một căn bệnh thần kinh hiện đại ảnh hưởng tới trí tuệ sáng suốt.

Trong khi đó, Debussy vẫn tiếp tục sáng tác, đáng chú ý ở đây là bộ ba dành cho dàn nhạc có tên Images (1906-1912) bao gồm: Gigues, Iberia Rordes de Printemps. Năm 1908, ông chỉ huy một buổi hòa nhạc các tác phẩm của mình tại London. Ông cũng nhận lời tham gia chỉ huy tại Vienna (1910), Turin (1911), Moskva và Saint Petersbourg (1913); tại Rome, Amsterdam và Hague (1914). Trong khoảng thời gian này còn có tổ khúc piano Douze Préludes (hai tập, 1909-1910; 1910-1913) và Douze Études (2 tập, 1915), En blanc et noir cho piano (1915). Năm 1917, Debussy chơi piano bản sonata dành cho violon đầu tiên tại Paris cùng nghệ sĩ violon Gaston Poulet.

Những dự định công diễn tại Mỹ của ông với nghệ sỹ violon Arthur Hartman buộc phải huỷ bỏ khi bác sĩ phát hiện ra Debussy bị ung thư ruột kết. Cuộc phẫu thuật được tiến hành vào tháng 12- 1915 với rất ít hy vọng thành công. Đại chiến thế giới thứ nhất kéo dài khiến ông suy sụp. Lòng căm thù quân Đức tăng lên khi ông thấy sự đe dọa của chúng đối với Paris. Ông viết nhiều tác phẩm trữ tình và phần nhạc đệm cho bài hát Noel des enfants (Noel của trẻ em) trong đó ông hy vọng ông già Noel không đem quà tặng cho trẻ em Đức mà bố mẹ của chúng là những người đã phá huỷ lễ Giáng sinh của trẻ em Pháp. Để cho thấy ý thức dân tộc của mình, ông dứt khoát ký tên ''Musicien Franais" (Nhạc sĩ Pháp).

Debussy qua đời vào một buổi tối ngày 25-3-1918 khi mà khẩu đại bác Đức khổng lồ ''Big Bertha'' đã thực hiện những nỗ lực cuối cùng nhằm chinh phục thủ đô Paris bằng một cuộc oanh tạc.

Debussy dứt khoát chối bỏ thuật ngữ ''ấn tượng'' được áp đặt cho âm nhạc của ông. Nhưng không thể phủ nhận sự thực hiển nhiên như Mallarmé trong thơ ca, Debussy đã sáng tạo ra một thể loại âm nhạc mang sắc thái riêng biệt, một thứ âm nhạc kèm theo màu sắc tinh tế. Ông đã vận dụng phương pháp thăng âm năm âm chủ đạo của phương Đông để tạo nên một thứ âm nhạc pha trộn kỳ lạ (tuy nhiên, ông không phải là người phát minh, những tác phẩm vận dụng thể loại nhạc đầu tiên này được tìm thấy trong các sáng tác của Glinka và Liszt). Tác phẩm Voiles dành cho piano độc tấu của ông được viết trong thang âm năm âm chủ đạo, trong đó đoạn giữa được vận dụng hoàn toàn năm âm chủ đạo. Trong âm nhạc của mình, ông đã loại bỏ việc kết hợp âm nghịch; ông cũng làm hồi sinh lại qua việc vận dụng quãng ngắt hợp lý liên tiếp (đặc biệt quãng 5 và 4). Trong các tác phẩm của ông, phần chủ đề được viết ngắn gọn hơn về phần nhạc điệu. Trong khi đó các đoạn độc tấu riêng biệt đóng vai trò quan trọng với các nhạc cụ và được đề cao đến mức tinh tế.

           




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1055-02-633389212941440778/Am-nhac/Achille-Claude-Debussy-1862-1918....


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận