Tài liệu: Đấu tranh chống lại âm mưu bành trướng và xâm lược của các thế lực đế quốc thực dân

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Tại Hội nghị toàn quốc tháng 8-1945, Đảng đã vạch rõ: quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp đang lăm le khôi phục lại địa vị của chúng
Đấu tranh chống lại âm mưu bành trướng và xâm lược của các thế lực đế quốc thực dân

Nội dung

Đấu tranh chống lại âm mưu bành trướng và xâm lược của các thế lực đế quốc thực dân

Cùng với việc xây dựng chế độ mới, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phải tiến hành cuộc đấu tranh gay go phức tạp và quyết liệt chống lại âm mưu lật đổ, bành trướng của quân Tưởng và phát động cuộc kháng chiến toàn dân chống lại cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.

Tại Hội nghị toàn quốc tháng 8-1945, Đảng đã vạch rõ: quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp đang lăm le khôi phục lại địa vị của chúng. Ở Đông Dương. Hội nghị đề ra chủ trương phải tránh trường hợp một mình đương đầu với nhiều kẻ thù, phải hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh - Pháp và Mĩ - Tưởng. Để bảo vệ chính quyền còn non trẻ, Đảng và Nhà nước ta, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đã vận dụng một đường lối chính trị nhậy bén và sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược nên đã từng bước đẩy lùi âm mưu của kẻ thù.

1. Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam

Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị từ trước và được quân Anh giúp đỡ, đã trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Chúng là kẻ thù chính của nhân dân ta.

Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp cho nổ súng ở Sài Gòn.

Ngay sáng 23-9-1945, trong khi quân và dân Sài Gòn đang chống trả địch quyết liệt, Xứ ủy và ủy ban nhân dân Nam Bộ đã họp tại một địa điểm trên đường Cây Mai, Chợ Lớn (nay là số nhà 627 - 629, đường Nguyễn Trãi, quận 5). Tham dự cuộc họp có Ung Văn Khiêm, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Nguyễn, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Văn Tiểng... Hội nghị đã nhất trí điện ra Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh để xin phép phát động cuộc kháng chiến và trên thực tế, quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã buộc phải đứng lên kháng chiến vì quyền lợi của quốc gia dân tộc.

Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch, còn ủy ban kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn do Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch.

Chiều ngày 23-9, ủy ban kháng chiến Nam Bộ ra tuyên cáo nêu rõ: “Sáng hôm 23-9, quân Pháp công nhiên chiếm trụ sở Ủy ban hành chính Nam Bộ và quốc gia tự vệ cuộc. Chúng đã gây nhiều cuộc đổ máu ở đường phố Sài Gòn... Không lẽ chịu nhục hoài; vì danh dự của dân tộc, chúng ta coi trọng quyền lợi của quốc gia, nên chúng tôi phải đánh điện ra Trung ương xin phép cho kháng chiến...”[1].

Quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, quân dân Nam Bộ đã kiên quyết đứng lên chiến đấu mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là hành động kịp thời và đúng đắn. Trung ương Đảng, Chính phủ đã tán thành và kêu gọi cả nước chi viện cho quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, cho Nam Bộ kháng chiến.

Ngày 24-9, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra Huấn lệnh gửi cho quân và dân Nam Bộ. Huấn lệnh chỉ rõ: “Nam Bộ phải căn cứ theo chính sách tranh thủ hoàn toàn độc lập của chính phủ và điều kiện thực tế của Nam Bộ mà định phương châm hành động cho đúng, làm sao giữ gìn được lực lượng quân sự và chính trị, đồng thời chứng tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam không chịu ách nô lệ một lần nữa”[2].

Ngày 26-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã gửi thư biểu dương “lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ”. Người nêu rõ: chính phủ và đồng bào cả nước sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hi sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà.

Vì danh dự của Tổ quốc, vì độc lập của dân tộc, quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, quân dân Nam Bộ đã kiên quyết chiến đấu dũng cảm bằng mọi thứ vũ khí có sẵn trong tay, từ gậy tầm vông vót nhọn và bằng mọi cách đánh ở bên trong, ngăn chặn bao vây địch từ bên ngoài thành phố, gây cho chúng nhiều khó khăn tổn thất, kìm chúng trong thành phố suốt hơn một tháng, tạo điều kiện cho các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến khi quân Pháp mở rộng chiến tranh.

Cuối tháng 10-1945, nhờ tăng viện binh, quân Pháp đã phá vỡ vòng vây xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn, mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Cuộc kháng chiến của quân dân miền Nam gặp nhiều khó khăn: Trước tình hình ấy, ngày 25-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng ở Thiên Hộ (Mĩ Tho) để kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh, đề ra các biện pháp nhằm củng cố và phát triển lực lượng quân sự và chính trị, phát triển chiến tranh du kích, tăng cường công tác chính trị, đẩy mạnh công tác trừ gian, khôi phục chính quyền ở những nơi bị vỡ, xây dựng cơ sở bí mật trong các thành phố, thị xã bị chiếm v.v… Ban Thường vụ Trung ương Đảng vạch rõ nhiệm vụ quân sự lúc này là động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo kháng chiến lâu đài, phối hợp chiến thuật du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để. Chiến thuật của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ là phải cắt đứt liên lạc của địch giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, bao vây chúng về kinh tế, quấy rối về quân sự, phải áp dụng chiến thuật du kích cho triệt để chọn những vùng chiến lược lợi hại, để dựa vào đó ta có thể đánh lui quân địch và có thể giữ được để đóng quân, giữ vững liên lạc giữa các chiến khu để thống nhất chỉ huy.

Đảng và Chính phủ ta còn phát động phong trào ủng hộ, tổ chức chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hàng vạn thanh niên nô nức nhập ngũ. Các chi đội vệ quốc đoàn được thành lập và lần lượt lên đường tham gia chiến đấu ở các mặt trận miền Nam. Chi đội I đã hành quân vào miền Đông Nam Bộ để tác chiến ở Bình Lợi, Xuân Lộc. Nhiều chi đội đã chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ, ở Nha Trang, Buôn Ma Thuật. Họ đã sát cánh cùng quân dân miền Nam chiến đấu anh dũng. Sụ đóng góp sức người, sức của và mọi chi viện khác của nhân dân ở Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ là hình ảnh của dân tộc thống nhất, cả nước chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ chống lại đội quân xâm lược nhà nghề của Pháp là một cuộc đụng đầu không cân sức nên chúng ta không thể đánh bại được kế hoạch mở rộng đánh chiếm của chúng. Song chính cuộc chiến đấu đó đã bước đầu làm thất bại chiến lược đánh nhanh, giải quyết nhanh của Lơcơlec (Leclerc), là hình ảnh đẹp của bức Thành đồng tổ quốc. Để bảo vệ tổ quốc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta còn phải chiến đấu nhiều. Chỉ có chiến đấu mới vượt được những trở lực, khó khăn. Chỉ có chiến đấu mới đưa lại vẻ vang cho Tổ quốc. Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối toàn dân đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[3].

2. Hòa hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng ở miền Bắc

Để tập trung lực lượng chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, Đảng và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thực hiện chủ trương hòa hoãn, nhân nhượng, đẩy lùi từng bước âm mưu chính trị quân sự của quân đội Tưởng và tay sai.

Nhằm biểu dương lực lượng chính trị của quần chúng cách mạng, chính phủ đã huy động hàng vạn dân chúng xuống đường để đón quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật với các khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện”, “Kiên quyết ủng hộ Hồ Chí Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Kiên quyết kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược”.

Đầu tháng 10 - 1945, Hà Ứng Khâm, Tổng tham mưu trưởng của quân Tưởng, đến Hà Nội cũng được hàng vạn quần chúng xuống đường diễu hành với đội ngũ chỉnh tề, cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ rợp trời, đã hô vang các khẩu hiệu: “ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, “ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh” để “đón tiếp”!

Dựa vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân ủng hộ Chính phủ và bảo vệ nền độc lập tự do, Chính phủ và Hồ Chí Minh đã đấu tranh hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng về kinh tế và chính trị, tránh mọi hành động khiêu khích xung đột, khéo léo giải quyết những vụ xung đột đã xảy ra theo sách lược “biến xung đột to thành xung đột nhỏ, biến xung đột nhỏ thành không có xung đột”.

Về kinh tế, tài chính, chính phủ ta buộc phải cung cấp gạo và chấp nhận cho quân Tưởng tiêu giấy bạc “quan kim” và “quốc tệ” ở miền Bắc.

Về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ, bàn bạc và thương lượng với tướng Tiêu Văn để giải quyết các vấn đề chính trị có quan hệ với quân Tưởng và các phái đối lập Việt Quốc, Việt Cách.

Tiếp đó, việc cải tổ Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời (1-1-1946), rồi mở rộng thêm 70 ghế đại biểu Quốc hội cho các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách không thông qua bầu cử, lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến (2-3-1946) v.v..., thực chất là sự nhân nhượng về chính trị của Đảng, Chính phủ và Việt Minh nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng và tay sai.

Sự nhân nhượng về chính trị trên đây đã thể hiện một yêu cầu cơ bản là giữ vững sự tồn tại của chính quyền của dân, do dân và vì dân, một chính quyền của sự hòa giải, đoàn kết thống nhất quốc gia dân tộc để tổ chức kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp và kiến thiết quốc gia, thực hiện tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh với khẩu hiệu hành động cấp bách là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.

Trong khi thực hiện hòa giải nhân nhượng, thông qua công cụ báo chí, thông tin tuyên truyền, chúng ta đã không ngừng vạch trần những hoạt động chia rẽ, phá hoại phản dân hại nước của các lực lượng tay sai của Tưởng, kiên quyết trừng trị những tên hoạt động làm tổn hại đến an ninh quốc gia trên cơ sở đã đủ bằng chứng.

Trong quan hệ với Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ nước Việt Nam đã giữ mối quan hệ bang giao thân thiện. Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính sách của Việt Nam đối với Trung Hoa, lúc này tóm tắt lại là phải thân thiện”[4]. Người đã nhiều lần gửi thông điệp, gửi điện đến Thống chế Tưởng Giới Thạch thông báo rằng Chính phủ Việt Nam đã giải quyết việc quân đội Tưởng bị công kích ở địa phương Yên Bái khi họ mới kéo quân qua biên giới và yêu cầu Thống chế can thiệp buộc quân Anh - Pháp phải chấm dứt tàn sát nhân dân Việt Nam đang bảo vệ quyền dân tộc chính đáng của mình theo các nguyên tắc đã ghi trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Xan Phranxixcô (San Francisco) và “công nhận nền độc lập hoàn toàn của nước Cộng hòa Việt Nam”[5].

Để tỏ rõ thiện chí của mình, Hội đồng chính phủ trong phiên họp ngày 11-3-1946 (với sự có mặt của cố vấn tối cao Vĩnh Thụy) đã quyết định cử một phái bộ của Chính phủ Việt Nam sang giao hảo với Trung Hoa trong đó có Vĩnh Thụy, Nghiêm Kế Tổ[6]...

Chủ trương nhân nhượng của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng đại đoàn kết thống nhất quốc gia dân tộc của Hồ Chí Minh, là kịp thời, táo bạo và đúng đắn. Đứng trước tình thế gay go và cấp bách lúc bấy giờ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng chính quyền nhân dân, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất. Lúc đó Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết, Đảng phải giải quyết mau chóng, phải dùng những phương pháp - dù là những phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế”[7].

Việc nhân nhượng của Đảng và Nhà nước ta đã hạn chế và vô hiệu hóa đến mức thấp nhất mọi hoạt động chống phá của quân Tưởng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng, tạo điều kiện cho ta kiến quốc và kháng chiến chống thực dân Pháp.

3. Đàm phán ngoại giao với Pháp. “Hòa để tiến”

Sau khi chiếm được các tỉnh ở Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ, cơ quan tham mưu của Pháp tại Sài Gòn đã dự thảo một kế hoạch quân sự để trở lại chiếm miền Bắc. Đó là một kế hoạch mạo hiểm. Vì lúc đó ở miền Nam quân đội viễn chinh Pháp đã có trên 65.000 người song Pháp không thể bình định được Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ. Nếu đưa quân ra Bắc thì phải đụng đầu trực tiếp với một lực lượng kháng chiến mạnh mẽ gấp nhiều lần mà họ đã đọ sức khá gay go ở miền Nam. Hơn nữa, trên miền Bắc còn có 20 vạn quân Tưởng đang làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật.

Trong tình hình trên, Chính phù Pháp đã tìm một giải pháp chính trị thích hợp là phải thương lượng với Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh và tìm cách điều đình với Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa để “hòa bình” đưa quân ra miền Bắc.

Lúc này, Chính phủ Tưởng Giới Thạch đang gặp nhiều khó khăn: Hồng quân Trung Quốc đang phản công quyết liệt trên khắp các mặt trận ở lục địa. Quân Tưởng buộc phải rút khỏi miền Bắc Đông Dương về nước để củng cố lực lượng. Các cuộc tiếp xúc giữa Pháp và Tưởng đã được diễn ra.

Còn đối với Việt Nam, sau khi lên thay Đơ Gôn (De Gaulle), Philich Goanh (F.Gouin) đã coi việc Pháp thương lượng với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là thích hợp.

Vì vậy, ở Trùng Khánh, đại diện Chính phủ Pháp đã nỗ lực dàn xếp để sớm thỏa thuận với đại diện Chính phủ Tưởng.

Ở Việt Nam, Giăng Xanhtơni (J. Sainteny) cũng đã xúc tiến điều đình với Chính phủ ta.

Vào hạ tuần tháng 2-1946, đại diện Chính phủ Pháp và Việt Nam đã có các cuộc gặp gở. Trong cuộc gặp Giăng Xanhtơni ngày 25 - 2 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ lập trường của Việt Nam trong quan hệ Việt - Pháp là độc lập và hợp tác, còn Giăng Xanhtơni nói: nước Pháp có thể công nhận Việt Nam là có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nhưng là một nước tự trị trong Liên hiệp Pháp. Đây là điều đối lập cơ bản về lập trường giữa Việt Nam và Pháp.

Việc thương lượng, mặc cả ở Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng đã được thỏa thuận. Đúng như dự đoán của Ban Thường vụ Trung ương Đảng rằng: “Trước sau Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp miễn là Pháp nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng”[8].

Ngày 28-2-1946[9], Hiệp ước Pháp-Hoa đã được kí kết ở Trùng Khánh. Theo hiệp ước này, quân đội Tưởng rút về nước nhường cho quân Pháp quyền thay quân Tưởng vào miền Bắc Đông Dương để thực hiện việc giải giáp quân Nhật. Đổi lại, Pháp trả lại các giới nhượng địa của Pháp trên đất Trung Hoa, bán cho Tưởng đoạn đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều, nhượng cho Tưởng một đặc khu ở cảng Hải Phòng, hàng hóa của Tưởng chuyển vận qua miền Bắc sẽ được miễn thuế.

Hiệp ước Pháp - Hoa là sự chà đạp thô bạo đối với chủ quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Hạm đội của Pháp do tướng Lơcơlec (Leclerc) chỉ huy đang trên đường tiến vào vịnh Bắc Bộ.

Nhân dân Việt Nam vô cùng phẫn uất, bình tĩnh chuẩn bị, sẵn sàng chiến đấu.

Tình thế đó đặt ra cho Việt Nam trước một sự lựa chọn: đánh hay hòa?  Phải cân nhắc kĩ càng, phải quyết đoán nhanh chóng, không thể do dự.

Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp “hòa để tiến”. Hội nghị phân tích: “Vấn đề lúc này không phải là muốn đánh hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình, biết người, nhận định một cách khách quan những điều lợi hại trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”[10]. Do vậy, Ban thường vụ quyết định phải chọn giải pháp đàm phán, hòa hoãn, nhân nhượng nhằm mục đích sau:

- Quân Tưởng rút về nước ngay, tránh được tình thế một lúc phải chống với nhiều kẻ thù.

- Bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Lập trường đàm phán của ta là: độc lập nhưng liên minh với Pháp để “Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân ta: chính phủ, quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao... và sự thống nhất quốc gia của ta”[11].

Còn về phía ta có thể công nhận cho Pháp được đóng quân tạm thời và có hạn trên đất nước ta.

Và “điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”[12].

Ngày 4-3-1946, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ liên hiệp kháng chiến của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã tuyên bố “cương quyết giữ quyền độc lập” và chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc “dân tộc tự quyết” của Hiến chương Đại Tây Dương.

Chính phủ đã quyết định cử Hồ Chí Minh, Nguyễn Tường Tam, Phan Anh, Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh giải quyết công việc đàm phán. Các vị ấy sẽ tùy cơ ứng biến theo những nguyên tắc mà Chính phủ đã định ra, còn việc đàm phán với đại diện của Chính phủ Pháp thì giao cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam.

Cuộc đàm phán giữa ta và Pháp đã diễn ra khẩn trương và căng thẳng, trong đó vấn đề gay go, bế tắc lớn là: ta kiên quyết gạt bỏ chữ “tự trị” mà Pháp đưa ra, còn yêu cầu độc lập của ta thì phía Pháp chưa chịu công nhận. Do vậy, cần phải có một quyết định thích hợp để giải quyết bế tắc. Sau khi thống nhất với Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra yêu cầu: “Nước Pháp công nhận nước Việt Nam là một quốc gia tự do” và đã được Pháp chấp nhận.

Nội dung của Hiệp định đã được đại diện của hai phía đàm phán thỏa thuận, bao gồm nhiều điều khoản có quan hệ đến vận mệnh độc lập của dân tộc và chủ quyền của quốc gia. Vì vậy, trước khi kí với Pháp, sáng ngày 6-3-1946 tại phiên họp đặc biệt của Hội đồng chính phủ với sự tham dự của các vị Bộ trưởng (Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Chu Bá Phương, Đặng Thai Mai, Trương Đình Tri, Vũ Đình Hòe, Trần Đăng Khoa), cố vấn tối cao Anh Thụy, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Nguyễn Văn Tô, Chủ tịch và Phó Chủ tịch kháng chiến ủy viên hội - Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo cáo về nội dung của hiệp định và đã được hội nghị chấp thuận. Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vắng mặt, nên chính phủ đã cử Vũ Hồng Khanh thay mặt để cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh kí bản Hiệp định sơ bộ với đại diện Chính phủ Pháp.

Vào 16 giờ ngày 6-3-1946, tại ngôi nhà số 38 phố Lý Thái Tổ, trước mặt các đại diện của các nước Trung Hoa, Anh và Mĩ, Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh đã kí với Giăng Xanhtơni bản “Hiệp định sơ bộ”. Bản phụ khoản cũng được đại diện hai phía kí cùng một lúc.

Nội dung cơ bản của Hiệp định sơ bộ được tóm tắt như sau:

- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do có chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp.

Vấn đề thống nhất ba kì được Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.

- Chính phủ Việt Nam chấp nhận để 15.000 quân Pháp đưa vào miền Bắc thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch. Mỗi năm sẽ rút 1/5 số quân đó về Pháp và sau 5 năm sẽ rút hết.

- Hai bên sẽ ngừng cuộc xung đột và giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí cũ đề tạo bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay các cuộc điều đình thân thiện và thẳng thắn về các vấn đề ngoại giao của Việt Nam chế độ tương lai của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.

Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari có thể được chọn làm nơi họp. Kí Hiệp định 6-3 là một bước “hòa để tiến” của đảng và Chính phủ ta. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để thực hiện độc lập - chủ quyền - thống nhất còn trải qua nhiều khó khăn gian khổ.

Mặc dù đã cùng Chính phủ Việt Nam kí kết Hiệp định, song phía Pháp vẫn cố tìm mọi cách để trì hoãn cuộc đàm phán chính thức giữa Việt Nam và Pháp và đã sớm vi phạm Hiệp định như đưa quân đánh úp bộ đội ta ở Nam Bộ và Phan Rang v.v.. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp phải nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định và nhanh chóng mở cuộc đàm phán chính thức.

Theo đề nghị của Chính phủ, một phái đoàn của Quốc hội gồm 10 đại biểu, do Phó trưởng ban thường trực Quốc hội Phạm Văn Đồng dẫn đầu, sang thăm nước Pháp từ 25-4 đến 16-5-1946 để thắt chặt tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt-Pháp và làm cho các chính giới, nhất là nhân dân Pháp, hiểu rõ hơn cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. Từ ngày 19-4 đến 11-5-1946, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam – do Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn và đoàn đại biểu Pháp, do Măc Angđơrê (Max André) làm trưởng đoàn, đã họp Hội nghị trù bị ở Đà Lạt để trao đổi các vấn đề phải giải quyết trong cuộc đàm phán chính thức sẽ họp ở Pháp.

Do phía Pháp cố bám lập trường thực dân của họ nên các vấn đề đặt ra tại Hội nghị không đạt được một thỏa thuận nào.

Ngày 31-5-1946, theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường sang thăm Pháp. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng lên đường sang đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp. Hội nghị đàm phán họp tại Phôngtennơblô (Fontainebleau) từ ngày 6-7 đến 10-9-1946: Hội nghị đã bàn các vấn đề: địa vị của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp và những mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước, tổ chức Liên bang Đông Dương, vấn đề thống nhất ba kì và việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ, những vấn đề kinh tế, văn hóa và soạn thảo dự án Hiệp ước. Cuộc đàm phán ở Phôngtennơblô đã thất bại, do phía Pháp vẫn cố giữ lập trường thực dân và ngay trong thời gian đang đàm phán họ đã ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng xâm lược trên đất nước ta, liên tiếp vi phạm các điều khoản của Hiệp định sơ bộ 6-3.

Để tỏ rõ hơn nữa thiện chí hòa bình của Việt Nam, tranh thủ thêm thời gian hòa hoãn có lợi cho việc xây dựng đất nước, chuẩn bị thực lực để bước vào cuộc kháng chiến đoán chắc sẽ xảy ra, trước khi lên đường về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Mutê (Moutet) - đại diện của Chính phủ Pháp, bản Tạm ước vào đêm 14-9-1946. Bản Tạm ước gồm có 14 khoản, trong đó quy định một số điều quan hệ tạm thời về kinh tế và văn hóa giữa hai nước, đình chỉ chiến sự ở miền Nam, quy định thời gian tiếp tục đàm phán Việt-Pháp vào đầu năm 1947.

Thực hiện chủ trương hòa hoãn, việc kí Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9-1946 của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn. Phân tích đánh giá chủ trương đó, Hồ Chí Minh nói: “Việc này cũng làm cho nhiều người thắc mắc và cho đó là chính sách quá hữu. Nhưng các đồng chí và đồng bào Nam Bộ thì lại cho là đúng. Mà đúng thật. Vì đồng bào và đồng chí ở Nam Bộ đã khéo lợi dụng dịp đó để xây dựng và phát triển lực lượng của mình...

Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng căn bản. Khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu”[13].

Pháp đã cùng Việt Nam kí Hiệp định sơ bộ 6-8 và Tạm ước 14-9, song với bản chất thực dân, họ đã bội ước, lấn tới bằng chính trị, quân sự nhằm thực hiện âm mưu đặt lại toàn bộ ách thống trị trên đất nước ta.

Đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những “công việc khẩn cấp bây giờ”, vạch rõ những công việc về quân sự, chính trị, kinh tế v.v…, chuẩn bị kháng chiến lâu dài trên cả nước.

Từ tháng 9-1945 đến 12-1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn thử thách để bảo vệ được chính quyền cách mạng, xây dựng thực lực của dân tộc về mọi mặt.

Chính trong thời gian đó, Đảng và Chính phủ ta đã nắm vững mục tiêu cách mạng, đánh giá đúng lực lượng của ta và địch, nắm vững tình thế, dựa chắc vào nhân dân, nêu cao khẩu hiệu đại đoàn kết, hòa giải, hòa hợp dân tộc, loại bỏ chia rẽ, đối lập, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, kết hợp khéo léo các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, biết nhân nhượng hòa hoãn có nguyên tắc nên đã đưa nước nhà vượt qua tình thế hiểm nghèo, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố chính quyền cách mạng, kháng chiến và kiến quốc.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4652-02-633921709978591250/Xay-dung-va-bao-ve-che-do-dan-chu-cong-ho...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận