1700 – 1750:
THỜI ĐẠI CỦA PHÁT TRIỂN KHOA HỌC
1700 - 1750 - THẾ GIỚI
Điểm nổi bật của thế giới thế kỷ 18 là những cách tư duy mới. Khắp châu Âu dân chúng đã có cách suy nghĩ thay đổi về thể chế cai trị, các nhà toán học và khoa học đã có được những bước tiến khổng lồ trong tri thức khoa học. Lần đầu tiên, một hệ thống được nhắm đến để phân loại thế giới thực vật tách biệt với động vật, và các nhà Vật lý học bắt đầu am tường về những luận căn bản của ngành vật lý học, như trọng lực và chuyển động. Ở Trung Quốc nhà Mãn Thanh chỉ định người thực hiện cuốn bách khoa về kiến thức, trong khi ở Nhật bắt đầu sao chép và chấp nhận những phát triển của châu Âu về kỹ thuật và khoa học, để giúp làm giàu cho đất nước của họ.
Những cuộc cách mạng về nông nghiệp và kỹ nghệ. Vào đầu những năm 1700 một cuộc cách mạng xảy ra ở Anh có ảnh hưởng sâu đậm tới hầu hết từng quốc gia trên thế giới và mở đường cho sự tiến bộ về công nghiệp. Những kỹ thuật mới về nông nghiệp và sử dụng đất kết hợp với sự phát triển cơ khí mới đồng nghĩa với sự gia tăng sản lượng lương thực và giảm sức lao động. Điều này làm cho những người nông dân nghèo khổ, vốn tùy thuộc vào đất chung để sống, phải trở thành những kẻ hành khất. Nạn thất nghiệp lan tràn, họ phải chuyển về các thị trấn hay thành phố để kiếm việc làm. Vào cuối thế kỷ những nhà máy mới cung cấp việc làm cho các công nhân không còn việc làm ở thôn quê.
1700 - 1750 - CHÂU PHI
Ngành buôn bán nô lệ tiếp tục phát triển vào nửa thế kỷ này. Khoảng những năm 1730 trên 5000 nô lệ được đưa sang các đồn điền ở châu Mỹ hằng năm. Ở vùng Tây châu Phi vương quốc Asante mới trở thành siêu lãnh chúa của tất cả các vùng lân cận. Ở Angola các thương gia châu Âu tiếp tục có nguồn nô lệ từ các vương quốc nằm sâu trong đất liền như Luba và Lunda.
1701 - Osei Tutu thành lập một quốc gia Asante tự do. Về cuối thế kỷ 17, các quốc gia mới như Denkyira, Dahomey và Asante mới nổi lên ở mạn Tây châu Phi. Họ được tổ chức tốt để đưa việc buôn bán về phía bờ biển, như vậy tránh được sự xâm nhập của những người châu Âu vào Asante, còn Denkyira thì nằm ở vùng Akan của Bờ Biển Vàng. Để tránh sự cai trị của Denkyira, nhiều nhóm dân chuyển về mạn Bắc và kiểm soát Tafo một thành phố thương mại. Vào khoảng 1680 một thủ lãnh Asante, Osei Tutu (khoảng 1690 - 1717), thành lập một quốc gia mới được gọi là Asante với thủ đô mới ở Kumasi; ông được biết dưới danh hiệu - ''Asantehene''. Ông thành lập một đạo quân quốc gia, năm 1701 đánh thắng người Denkyira và giải phóng Asante khỏi sự triều cống. Năm 1717, Osei bị giết trong một cuộc chiến tranh vùng biên giới, để lại Asante thành một quốc gia thống nhất. Những người kế tục ông tiếp tục mở rộng vương quốc bằng các công thành chinh phục và thương mại tài tình.
1710 - Quân đội chiếm quyền ở Alger. Dưới quyền của Sulayman (1520-1566) và các người kế vị ông, đế quốc Ottoman lớn rộng đến mức phải được cai trị trên cơ sở các thành, Các Pashas (Tổng trấn) địa phương do vị thủ lãnh tối cao ở Istanbul chỉ định. Trải qua nhiều năm các tỉnh trở nên độc lập hơn, và các viên chức nhà nước tranh giành quyền kiểm soát đặc biệt ở các tỉnh bờ biển Bắc Phi, đôi khi còn được gọi là Bờ Biển Man Rợ. Họ tấn công các tàu châu Âu và giữ hành khách để lấy tiền chuộc Tunis và Tripoli cũng lợi dụng được sự cướp bóc này, dầu không lệ thuộc vào đó như Alger. Năm 1700 sự cướp bóc dần dần lắng xuống và quyền lực chuyển từ tay những tên cướp biển sang những người lính bảo vệ thành phố. Những người lính này vốn là những chiến sĩ tuyển chọn của lực lượng Ottoman, những người Janissaries. Họ lập nghiệp tại chỗ và cưới vợ người địa phương, tạo thành một cộng đồng riêng của họ, một loại giai cấp thống trị ở bên trong Alger. Họ tự cai trị và chọn những vị chỉ huy riêng của họ được gọi là dey. Năm 1710, dey lấy tên là Pasha (Tổng trấn) và từ đó họ củng cố nền độc lập dưới sự lãnh đạo của Sultan (thủ lãnh Hồi giáo). Họ buộc các bộ tộc nằm sâu trong đất liền triều cống những món tiền kếch sù và khích lệ những tên cướp biển. Thực tế Alger không còn là một thành phố của vương quốc Ottoman đang sụp đổ.
Những năm 1740 - Lunda thành lập một vương quốc mới. Vào cuối những năm 1600, hai dân tộc nói tiếng Bantu chế ngự vùng Trung Phi là Luba và Lunda. Sự giàu có của họ dựa trên thương mại đặc biệt là sắt, muối và đồng đen. Vương quốc Lunda nguyên được cai trị bởi triều đại các vua được gọi là Mwata Ymavo. Họ phái những đoàn người do một vị thủ lãnh gọi là Kazembe chỉ huy đi chinh phục những vùng đất lân cận. Và các vùng này trở thành nước chư hầu. Vào những năm 1740 một Kazembe đã tự lập nghiệp ở vùng hạ lưu sông Luapula (bây giờ là biên giới giữa Zambia và Zaire). Vương quốc Lunda này đòi triều cống bằng đồng đen, muối từ các vương quốc mạn Tây và kiểm soát các quặng sắt ở mạn Đông. Vào những năm 1780, Kazembe xuất khẩu các nô lệ về mạn Tây thông qua Mwata Ymavo, ông cũng xuất khẩu đồng đen và ngà voi sang mạn Đông.
1700 - 1150 - CHÂU Á
Khi Aurangzeb, hoàng đế Moghul vĩ đại cuối cùng chết, đế quốc Moghul bị tan vỡ. Vào 1740 những thành phố chính như Delhi, Lahore và Kabul lại bị thất thủ vào tay những người Ba Tư phục hưng dưới quyền Nadir Shah. Trung Quốc phồn vinh vào cuối những năm của triều đại Khang Hi và vào đầu những năm của triều đại Càn Long. Người Nhật dưới thời Shogun Tokugawa Yoshimune bắt đầu khuyến khích học tập những tư tưởng và kỹ thuật tuyển chọn của châu Âu, trong khi sự phát triển tại quê hương về nông nghiệp tạo ra sự giàu có.
1716 - Yoshimune trở thành Shogun. Năm 1716 vị Tướng quân nhiếp chính Tokugawa tối cao thứ 8, Yoshimune (1681, 1791) được chỉ định. Ông là một nhà cai trị tài ba và nhắm tới việc chế ngự chính quyền Bakufu (quân sự) trong thời gian làm Shogun của ông. Ông đưa các cải tổ về kinh tế và nỗ lực khích lệ nông nghiệp và cải tiến các bộ phận cơ khí để nâng cao mực nước và cải thiện ngành thủy lợi. Vào cuối thời kỳ cai trị của ông, ông đã viết luật pháp thành văn bản để các thẩm phán dễ hiểu hơn. Yoshimune cũng bắt đầu mở cửa Nhật Bản để đón nhận những ảnh hưởng bên ngoài. Các lý thuyết châu Âu đúc kết thành môn học như khoa học, y dược, chiến thuật, pháo binh và thiên văn học đều được Nhật tăng cường học hỏi. Yoshimune về hưu năm 1745 và chết năm 1751.
1736 - Nền cai trị Càn Long. Thời kỳ cai trị lâu dài của hoàng đế Càn Long (1736- 96) dưới triều đại nhà Thanh cũng đáng để ý như triều đại của ông nội ông là Khang Hi. Trong thời gian này Trung Quốc của nhà Mãn Thanh đạt tới đỉnh cao của quyền lực.Chính hoàng đế cũng là một con người hăng say làm việc nghiêm túc và rất có năng lực lãnh đạo. Ông ưa thích các nghi thức và thực hiện những chuyến đi thăm khắp vùng đất bao la của ông để gây ấn tượng đối với các chư hầu. Ông là một vị tướng thành công trong việc phá hủy quyền lực của người Mông Cổ ở miền Trung Á, sáp nhập Turkestan và buộc Nepal phải chấp nhận quyền lực của Trung Quốc. Trên trận tuyến đối nội, ông đi đầu trong sự phát triển quan trọng về nông nghiệp, làm cho Trung Quốc trở nên phồn thịnh vô cùng. Thương mại với Âu châu cũng tăng trưởng một cách đáng kể. Dưới nền cai trị của ông, dân số trung Quốc cũng tăng vọt và hàng triệu người rời bỏ thôn quê để thành lập rất nhiều tỉnh lỵ với sự giúp đỡ của nhà vua. Trong tư cách là nhà bảo trợ của nghệ thuật và văn học. Càn Long đặc biệt đỡ đầu cho những công trình văn chương vĩ đại như một Thư viện với 30.000 đầu sách về các công trình cổ điển, lịch sử và triết học...
1736 - Shah Nadir cai trị Ba Tư. Trong thời gian cai trị của mình, Shah Tahmasp II (1722- 31) của Ba Tư được 1 thủ lãnh của bộ tộc Afshar, Nadir Kuli, giúp đỡ rất nhiều. Năm 1732 Nadir hạ bệ Tahmasp và đứa con nhỏ của Tahmasp trở thành Shah Abbas III. Khi ông này chết vào năm 1736, Nadir trở thành Shah. Trong vòng 11 năm ông thực hiện nhiều chiến dịch và lấy thêm đất đai cho Ba Tư. Ông chinh phục Afghanistan và Ấn Độ, chiếm Kabul, Lahore và Peshwar và cuối cùng cướp phá Delhi. Nadir bấy giờ kể như cai trị Ấn Độ ở mạn Bắc và Tây sông Indus.
1700 - 1750 - CHÂU ÂU
Thoạt đầu nhiều nước châu Âu bị dính líu vào cuộc chiến tranh kế vị ở Tây Ban Nha (1701 - 1713) để giữ quyền kiểm soát Tây Ban Nha và đế quốc của nó. Sau đó, một thời gian hoà bình lâu dài đã cho phép nền nông nghiệp bắt đầu từ Anh phát triển rất mạnh. Một số sự bộc phát các tư tưởng về khoa học và triết lý mở ra một cách nhìn mới vào mọi khía cạnh của cuộc sống, và nay được gọi là Thời Đại Ánh Sáng. Ngay cả những hình thức cai trị theo truyền thống cũng bị đặt thành vấn đề. Nước Pháp vẫn có quyền lực nhưng không được như dưới thời Louis XIV. Nga Hoàng Peter Đại đế biến nước Nga thành một thế lực quan trọng trên diễn đàn châu Âu .
1703 - Peter Đại Đế thành lập St- Peterburg. Peter Đại đế trị vì nước Nga cùng với Ivan V, anh em cùng cha khác mẹ, từ 1682 đến 1696, và một mình tới 1725, đã biến đổi một quốc gia lẻ loi và lạc hậu thành một thế lực mới quan trọng ở châu Âu. Ông rút ra những tư tưởng có được do cuộc du lịch 18 tháng ở vùng Tây châu Âu (1769 - 98) và biến chúng thành cơ sở để chấn chỉnh lại các cơ chế và lối sống của Nga. Peter thay đổi hệ thống cai trị xưa, cổ vũ giáo dục, tổ chức lại nhà thờ và thăng quan trong dịch vụ công cộng dựa trên thành tích. Ông gửi thanh niên Nga sang Tây Âu để học hỏi về quân sự, thủy quân và các kỹ thuật công nghiệp gồm 300.000 người cũng như lực lượng thủy quân đầu tiên của Nga. Ông đánh và thắng Thụy Điển (1700-21) để có được đường đi lên biển Baltic. Năm 1703 ông xây dựng một thành phố mới bên bờ biển Baltic gọi là St. Peterburg. Năm 1712 ông biến nó thành thủ đô Nga, Peter Đại đế tự xưng mình là hoàng đế của tất cả các lãnh thổ Nga năm 1712.
Peter Đại đế. Cao gần 7 bộ, vóc dáng Peter hợp với tính nết cương nghị phi thường của ông. Ngoài việc là một người nghị lực cương quyết ông còn là một người tàn bạo. Những ai chống đối ông không bao giờ gặp được sự thương xót. Tính nhiệt tình tự mình thực hiện các công việc biểu lộ trong việc tập tành những kỹ năng thực tiễn như đóng tàu (ông rất mê thuyền), sửa đồng hồ, đúc súng, khắc gỗ, đóng giày và nhổ răng. Ông đã thành công trong việc trùng tu lại nước Nga.
1704 - Trận Blenheim. Charles II Tây Ban Nha (1665- 1700) không có người thừa kế trực tiếp. Khi ông chết đi ngai vàng để lại cho hoàng tử Pháp Philippe d'Anjou, cháu trai của vua Louis XIV. Các quốc gia châu Âu khác không muốn hai thế lực Pháp và Tây Ban Nha thống nhất. Họ thành lập một Đại liên minh vào năm 1701. Cuộc chiến tranh thừa kế Tây Ban Nha bùng nổ. Một trong những người chỉ huy của Liên minh, John Churchill, công tước Marlborough thắng Pháp một trận lớn ở Blenheim, năm 1704; tiếp sau là 3 chiến thắng khác. Mặc dầu vậy Pháp vẫn còn quyền lực, vào lúc có hiệp ước Utrecht chấm dứt chiến tranh năm 1713, Philippe d'Anjou được chấp nhận giữ ngôi vua Tây Ban Nha.
Chiến tranh thừa kế Tây Ban Nha 1701.
1701 Chiến tranh thừa kế Tây Ban Nha bùng nổ. Hoàng tử Eugene of Savoy chiếm Ý.
1704. Trận Blenheim, chiến thắng lớn đầu tiên của Malborough chống Pháp.
1706. Trận Ramilies, chiến thẳng thứ hai của Malborough.
1708. Trận Oudemarde, chiến thắng thứ 3 của Malborough.
1709. Chiến thắng thứ 4 của Malborough ở trận Malplaquet.
1711. Đại liên minh của các quyền lực chống Pháp giải tán, Malborough bị nữ vương Anne cho về vườn.
1712. Quân đội Pháp dưới sự chỉ huy của Marshal Villars thắng trận ở Denain.
1713. Philippe V cháu trai của Louis XIV Pháp được xác định là vua Tây Ban Nha, Louis đồng ý là Pháp và Tây Ban Nha sẽ không bao giờ thống thất dưới quyền cai trị của một người cầm quyền.
1713. Frederick Willam cai trị Phổ (Đức) - Năm 1701 Frederick III, thành viên hội đồng cử tri của Brandenburg, được đăng quang là Frederick I vua nước Phổ. Frederick William kế nghiệp ông làm quốc vương Phổ vào năm 1713. Hai thành tựu lớn đánh dấu triều đại của Frederic Willlam và tạo nền cho một quốc gia vững mạnh. Thứ nhất, ông phát triển chính quyền Phổ thành một tổ chức tập trung quyền hành vững mạnh, bản thân ông nắm quyền trong những chức vụ chính của chính quyền trung ương cũng như địa phương. Thứ hai, ông thành lập một đội quân Phổ hùng mạnh và ông tăng gấp đôi quân số thành một đạo quân 80.000 người, khiến nó thành một trong những lực lượng lớn nhất châu Âu. Ông cũng đưa ra những biện pháp để cải thiện nền kinh tế Phổ, tích cực cải tạo nông nghiệp và đặt ra nền giáo dục cưỡng ép đối với mọi trẻ con.
Fleury cai trị Pháp. Nước Pháp lấy lại sự phồn vinh sau cuộc chiến tranh kế thừa Tây Ban Nha. Khi vua Louis XIV chết vào năm 1715, ông để lại một người nối nghiệp 5 tuổi, Louis XV và một thời gian bất ổn của chính quyền quan nhiếp chính sau đó. Đến tuổi 16, Louis XV bổ nhiệm vị đỡ đầu, Hồng y giáo chủ Fleury, làm Thủ tướng. Chính quyền Fleury khuyến khích sự tăng trưởng về kỹ nghệ và thương mại, đổi mới hệ thống tài chính quốc gia và văn bản hoá lệ luật. Ông có những liên minh chính đáng với các thế lực nước ngoài và đã xây dựng hải quân Pháp. Chính quyền Fleury đã tạo được sự ổn định. Do ông không quan tâm đến các khó khăn của giai cấp công nhân nên đã làm cho sự chán ghét ngày một tăng thêm.
Kỷ nguyên ánh sáng. ''Dám biết'' có thể là châm ngôn của thời kỳ ánh sáng, một thời kỳ kéo dài từ cuối thế kỷ 17 đến hết thế kỷ 18 khi những tư tưởng mới về chính quyền, tự do cá nhân, trách nhiệm và niềm tin tôn giáo phát triển ở các triết gia châu Âu. Các nhà tư tưởng này tách khói niềm tin cũ và thay vào đó họ dựa vào trí thức cá nhân. Một số các ý tưởng của họ phát xuất từ các tác phẩm của triết gia người Anh John Locke (1632- 1704). Ông cho rằng mọi người sinh ra bình đẳng và độc lập, và quyền hành của nhà nước bắt nguồn từ sự tự nguyện của những người được cai trị. Đây đã là và sẽ là nền tảng của tính dân chủ ngày nay. Phong trào này rất tích cực ở Pháp, nơi mà các triết gia như Voltaire và Rousseau thách thức ý niệm của nền quân chủ chuyên chế và quan niệm truyền thống cho rằng giai cấp quý tộc và tôn giáo có quyền có những đặc ân. Các triết gia đó cũng cho rằng mọi người phải được giáo dục. Kỷ nguyên ánh sáng ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của cuộc sống châu Âu.
Những phát triển khoa học. Các nhà tư tưởng của kỷ nguyên ánh sáng chịu ảnh hưởng của sự lớn mạnh của kiến thức khoa học được bắt đầu từ thế kỷ 17 khi những niềm tin truyền thống bắt đầu được đặt thành vấn đề. Kiến thức đạt được giá trị thực tiễn hơn nhiều, và mọi ngành khoa học đều tiến bộ. Ở Anh Isaac Newton đã chứng minh sự hiện hữu của trọng lực và xác định 3 quy luật về chuyển động. Nhiều nhà khoa học nối bước. Hermann Euler ở Thuỵ Sĩ thực hiện được một cuốn sách giáo khoa có hệ thống về cơ khí. Và ở Pháp nhà vật lý Antoine Lavoisier đưa ra 1 lý thuyết mới về sự đốt cháy.
Cuộc cách mạng công nghiệp. Thế kỷ 18, một cuộc cách mạng xảy ra trong nông nghiệp, công việc trồng tỉa được cải tiến rất nhiều. Nông dân áp dụng thành công một phương pháp trồng mùa mới theo kiểu người Hà Lan, gọi là luân canh, giúp họ có những thu hoạch nhiều hơn và tốt hơn. Kỹ thuật khoa học mới cũng giúp sản xuất được những con giống tốt hơn cho việc chăn nuôi gia súc. Các máy mới như máy đánh luống gieo hạt của Jethro Tull và các kiểu máy cày cải tiến giúp cho việc trồng tỉa hữu hiệu và ít vất vả hơn. Đồng thời với những thay đổi này là việc áp dụng, khoanh vùng các cánh đồng bằng tường hay bờ dậu. Những miếng đất nhỏ hơn có hàng rào thay thế các cánh đồng trống rộng đã tỏ ra thiếu hiệu quả khi trồng thành những dải riêng biệt. Đất chung dùng cho súc vật gặm cỏ cũng biến khỏi sở hữu chung và trở nên biệt lập. Các thay đổi này không được quần chúng ưa thích, nông dân nghèo bị đánh đuổi khỏi đất và buộc phải tìm việc ở những thành phố đang phát triển.
1700 - 1750 - CHÂU MỸ
Ở Bắc Mỹ những dân định cư châu Âu tiếp tục thuộc địa hoá đất đai, phá hủy quyền thừa tự của những người Mỹ thổ dân. Ở Nam Mỹ, Tây Ban Nha liên kết đất đai của mình thành một lãnh địa, New Granada, dưới sự cai trị của một phó vương. Ở Brazil những người Bồ Đào Nha đổ xô ra đi kiếm tìm bằng cách khai quật mỏ, sau khi vàng và kim cương được tìm thấy. Những người Âu châu khác đem nô lệ tới vùng Caribbee để làm việc trong những đồn điền mía.
Những năm 1700 - Người Âu thám hiểm biển Caribbee. Vào thế kỷ 16, người Tây Ban Nha đi chiếm thuộc địa, định cư trên nhiều hòn đảo vùng biển Caribbee. Các quốc gia Âu châu khác trở nên hiềm khích với sự với sự giàu có nhờ mua bán ở thuộc địa của Tây Ban Nha, vì thế vào thế kỷ 17, với một sự chấp thuận không chính thừa của chính quyền họ, những tên cướp biển người Anh, Hà Lan và Pháp chiếm các tỉnh lỵ vùng biển Caribbee. Họ thành lập các đồn điền mía để thoả mãn các nhu cầu về đường ở châu Âu, với các nô lệ nhập cảng từ châu Phi làm lao công. Vào những năm 1700, vùng Caribbee sản xuất nhiều đường nhất thế giới. Vì quyền lực Tây Ban Nha yếu dần bên trời Âu, các quốc gia khác có thêm những thuận lợi trong việc buôn bán ở hải ngoại. Năm 1713 Anh chiếm được độc quyền về buôn bán nô lệ với các thuộc địa còn lại của Tây Ban Nha ở Caribbee. Những người Mỹ thổ dân ở những khu rừng phía Đông. Nhiều nền văn minh bản xứ của châu Mỹ đã tồn tại ở Bắc Mỹ khi người châu Âu đến. Dân của họ có khoảng 900.000 người. Khoảng giữa thế kỷ 18 con số ấy bị giảm đi rất nhiều. Bệnh hoạn là một thủ phạm, những nhà thám hiểm và dân định cư đem sang những thứ bệnh tàn khốc như đậu mùa. Sự xung khắc với người Anh, Hà Lan và Pháp đi tìm thuộc địa ở mạn bờ biển phía Tây và người Tây Ban Nha ở miền Nam, cũng là nguyên nhân của một sự mất mát to lớn. Vào những ngày đầu, thường vẫn có tình hữu nghị và sự cộng tác của thổ dân với người định cư. Nhưng khi khát vọng đất của những người chiếm thuộc địa gia tăng thì sự căng thẳng cũng gia tăng. Người Mỹ thổ dân chấp nhận nhường đất theo những hiệp ước, nhưng họ không có quan niệm về quyền sở hữu đất của người châu Âu. Họ chỉ đơn thuần nghĩ họ nhường quyền sử dụng đất đai cho người mới định cư. Trong khi đó người định cư lại nghĩ về chủ quyền đất là đất phải được rào lại và phát triển. Do đó, người thổ dân mỗi ngày một bị đuổi dần ra xa vào những vùng hoang dã.
1717 - Phó vương quốc được thành lập ở New Granada Sau khi Tây Ban Nha biến phần lớn Nam Mỹ thành thuộc địa, các vương triều Tây Ban Nha. Một hội đồng các Indies được thành lập để làm luật và thanh tra tài chánh. Các phó vương đại diện cho vua Tây Ban Nha được gửi đến để cai trị những vùng rộng lớn. Năm 1717 Phó vương quốc New Granada được thành lập và tạo thành những quốc gia ngày nay là Panama, Ecuador, Colombia và Venezuela. Các phó vương chịu trách nhiệm vè toà án địa phương, có quyền lực về luật pháp, tài chính và hành chánh tại địa phương. Các phó vương và viên chức audiencia đều là người Tây Ban Nha. Thường có ác cảm với họ là những địa chủ có nguồn gốc Tây Ban Nha nhưng sinh ra ở Nam Mỹ và bị cắt đứt khỏi những quyền lực chính trị và đặc ân về thương mại.
Đế quốc ở hải ngoại. Tây Ban Nha thuộc địa hoá 1 vùng đất rộng gấp 2 châu Âu và Bồ Đào Nha thuộc địa hoá vùng đất ngày nay được gọi là Brazil.
1727 - Kim cương được tìm thấy ở Brazil. Người châu Âu tới Nam Mỹ để tìm vàng và bạc. Vào những năm 1700 hầu hết vàng của thế giới đều xuất phát từ các mỏ của Tây Ban Nha ở Peru và Mehico. Vào cuối thế kỷ 17, một nhóm buôn nô lệ Bồ Đào Nha tìm thấy vàng ở hạt Minas Gerais mạn Đông miền Trung Brazil. Năm 1727 lại tìm thấy kim cương ở Minas Gerais và người ta đổ xô về đây từ các đồn điền trồng mía nhiều đến mức kỹ nghệ đường hầu như sụp đổ. Làm việc cho các mỏ là những công nhân thổ dân được trả lương rất thấp và các nô lệ. Công nhân thường chết vì bệnh, thiếu lương thực hay vì thương tích do công việc ở mỏ.
1700-1750 - CHÂU ÚC
Người châu Âu tiếp tục tìm kiếm những lối đi nhanh hơn và dễ hơn băng qua Đại Tây Dương, tình cờ hơn là cố ý, tiếp giáp với đất liền. Jacob Roggeveen, một thuyền nhân Hà Lan đặt chân lên đảo Easter năm 1722 và viết về những bức tượng ở đấy. Đã có những cuộc đổ bộ lên châu Úc, nhưng diện tích bao la của nó vẫn chưa ai biết đến. Đồng thời tại nhiều vùng ở Úc châu, thổ dân tiếp tục sống một cuộc sống bình thản, không chút bị khuấy động, như họ đã sống từ 40.000 trước CN.
Những năm 1700 - Cuộc sống của thổ dân. Trên cả hàng ngàn năm các thổ dân tuần tự phát triển một cách sống hiền hoà và thích hợp với vùng đất. Họ không trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng thành phố. Cuộc sống du mục săn bắn và thu lượm là một cuộc sống thành công và không bị khuấy động. Không có gì rõ ràng chứng tỏ rằng trong cuộc sống lâu dài của họ họ đã giao tranh với nhau, và các bộ tộc, các phe nhóm của họ tồn tại bên nhau một cách hài hoà. Các phe nhóm, như một gia đình mở rộng, đi lo công việc hằng ngày của họ như săn bắn, đánh cá, thu lượm trái cây và chỉ đoàn tụ lại với nhau trong những dịp quanh trọng như các nghi lễ kết nạp.