Tài liệu: Huyền thoại về sơ tổ phật giáo Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)

Tài liệu
Huyền thoại về sơ tổ phật giáo Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)

Nội dung

HUYỀN THOẠI VỀ SƠ TỔ PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG

BỒ ĐỀ ĐẠT MA (BODHIDHARMA)

 

Có một con người mà hình bóng ngả dài suốt toàn bộ lịch sử Phật giáo Thiền tông Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. . . Trải qua năm tháng, hình tượng về người đã trở thành nguồn cảm hứng cho bao thế hệ nhà thơ, nhà văn, hoạ sĩ... Và, cho mãi tới ngày nay, những tư tưởng và bí pháp tu tập của Người đang trở thành đề tài cho nhiều Hội nghị Khoa học Quốc tế, được xem như xuất phát điểm cho những phương pháp tu tâm, dương tính, trau dồi sức khoẻ, chiến thắng bệnh tật của con người hiện đại. Con người ấy là Sơ tổ Phật giáo Thiền tông Bồ Đề Đạt Ma...

Bài kệ ''Tiên trì'' của Tổ hai bảy Bát Nhã Đa La

Truyền thuyết Phật giáo Thiền tông kể rằng, một hôm, thuyết pháp về giáo lý Thiền Tông ở Hội Linh Sơn, Đức Phật đưa đoá hoa ra trước các môn đệ và lặng thinh. Các môn đệ ngơ ngác, chỉ có Ma Ha Ca Diếp (mahakasyapa) thần hội được ý nghĩa thâm sâu của sự im lặng ấy liền mỉm cười và được Đức Phật trao cho “Chính pháp nhân tạng”[1], trở thành  Tổ thứ nhất của Thiền tông Ấn Độ.

Từ đó, chính pháp do tổ Ma Ha Ca Diếp lĩnh ngộ được tiếp nối truyền thừa mãi tới đời Tổ hai bảy Bát Nhã Đa La (Prajantara).

Đến đời Tổ hai tám Bồ Đề Đạt Ma, ước vào thời Nam Bắc triều bên Trung Hoa, dòng truyền thừa của Ma Ha Ca Diếp gặp trắc trở ở Ấn Độ nên Bồ Đề Đạt Ma hỏi sư phụ Bát Nhã Đa La: '"Nên hướng sang đất nước nào đây để hoằng dương Phật sự?”. Sư phụ Bát Nhã Đa La nói: "Sau khi ta tịch diệt 67 năm, ngươi nên đến Trung Quốc tuyên truyền Thiền chỉ cứu vãn sinh linh”. Tổ Ca Diếp nói thêm: “Ở đó, số người đạt được chân truyền diệu chỉ không sao đếm xuể. Có điều, người phương Nam nước đó ham chuộng công danh, không nhận ra Phật lý. Nếu có đến đó, ngươi không nên ở lâu”. Và Tổ Ma Ha Ca Diếp tặng cho Bồ Đề Đạt Ma bài kệ:

Lộ hành khóa thủy phục phùng dương,

Độc tự thê thê ám độ giang.

Nhật hạ khả linh song tượng Mã,

Nhị châu nộn quế cửu xương xương

 

Dịch nghĩa:

Đường đi qua biển lại qua sông,

U uẩn thâm sâu một tấc lòng.

Man mác chiều hôm dồn vó ngựa,

Bên đường quế mọc mắt mờ trông.

Bài kệ trên mang tính chất một bài sấm ký, dự báo về tương lai, đặc biệt hai câu đầu cho biết rõ về hành trình và tâm trạng của Tổ khi xa xứ sở ''Qua biển'' ám chỉ sự kiện Đạt Ma vượt biển đi sang phía Đông, lên bờ ở Quảng Châu, “qua sông” ám chỉ việc Đạt Ma sẽ truyền pháp ở phương Bắc v.v... Quả nhiên, những lời tiên đoán đó đều ứng nghiệm: Đạt Ma theo đường biển, qua sóng nước Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương sang phía Đông truyền pháp, cuối cùng ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý, niên hiệu Phổ Thông năm thứ bảy đời Lương Vũ Đế, tức vào năm 520, lên bờ ở Quảng Châu, được quan Thứ sử Quảng Châu nghênh tiếp. Ngày mồng 1 tháng 10, theo lời thỉnh cầu của Lương Vũ Đế, Người tới Kim Lăng ra mắt nhà Vua.

Trong cuộc diện kiến, Vua hỏi Tổ:

- Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, xây chùa, chép Kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể, vậy có công đức gì không?

- Đều không có công đức - Tổ đáp:

- Tại sao không cô công đức?

- Bởi vì những việc Vua làm là nhân “hữu lậu”, chỉ cho những quả nhỏ cõi Nhân Thiên, chẳng khác gì bóng theo hình, tuy có mà chẳng thực.

- Vậy công đức chân thật là gì?

- Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thế phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức. Công đức nói đây không thể lấy việc thế gian mà cầu được.

            - Thế nghĩa tột cùng của “Thánh đế” là gì?

- Một khi tỉnh rõ thông suốt rồi thì không có gì là Thánh.

Vua lại hỏi:

- Thế ai đang đối diện với Trẫm đây?

- Tôi không biết.

Đến Giang Nam, Tổ Đạt Ma nhiệt tâm muốn tìm một “đại sĩ” lòng dạ như biển cả, nên mới đưa ra những vấn đề cốt tuỷ của Thiền gia để thử Lương Vũ Đế nhưng vị Thiên tử đã từng xả thân xây chùa, chép Kinh, độ tăng, dốc lòng tin Phật, xong rút cục không có chút “huệ căn”. Qua vài câu đối đáp, Tổ biết tâm Vua không phù hợp với pháp của mình, nên Người thất vọng đành bẻ cành lau hoá phép làm thuyền vượt sông đi lên Giang Bắc, tới Núi Tung Sơn, ngó nhìn vách đá, suốt ngày lặng thinh. Người đời không hiểu, gọi Tổ là ''Bích quán Bà la môn" nghĩa là ''Ông Bà la môn ngó vách”...

Ngày nay đến Chùa Thiếu Lâm trên Núi Tung Sơn ta còn thấy có Động Đạt Ma. Tương truyền tại động này, Tổ Đạt Ma có tướng mạo hung dữ, đôi mắt luôn trợn trắng, lông mày xếch ngược, râu ria kín mặt, đã từng chín năm diện bích, tham Thiền nhập định, đến nỗi chim chóc làm tổ trên vai chẳng hề hay biết. Cuối cùng Người viên tịch tại đây. Song cũng có người nói rằng, Người không chết. Chứng cớ là, ba năm sau, Tống Vân đi sứ Tây Vực về, gặp Tổ Đạt Ma tại ngọn Thông Lĩnh. Thấy Tổ tay cầm một chiếc dép, một mình đi lướt như bay, Tông Vân hỏi:

- Tổ đi đâu đó?

- Ta về Tây phương - Tổ đáp.

Tiếp đó, Tổ nói thêm: “Chủ của người đã ''chán đời" rồi!”. Ngẩn ngơ, Tống Vân từ giã Tổ và vội vã về phụng mạng. Tới nhà, thì ra Vua Minh Đế đã băng hà. Tống Vân tâu việc gặp Tổ lên Vua Hiếu Trang mới lên ngôi. Vua ra lệnh quật mồ. Té ra trong quan tài chẳng có gì cả ngoài một chiếc dép da. Vua ra sắc chỉ đưa chiếc dép sư lưu lại về thờ ở Chùa Thiếu Lâm...

Tổ Bồ Đề Đạt Ma còn được nhà Vua phong là Viên giác Thiền sư, còn ngọn tháp của Người gọi là Không quán. Thiền tông Trung Hoa tôn Tổ làm Sư Tổ.

Sau Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, ám chỉ Thiền học Ấn Độ được truyền cho một vị cao tăng Trung Hoa là Tuệ Khả, Tuệ Khả lại truyền cho Tăng Xán, Tăng Xán lại truyền cho Đạo Tín, Đạo Tín lại truyền cho Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn cuối cùng truyền cho Huệ Năng. . . và, Phật giáo Thiền tông, với một bề dày hàng nghìn năm lịch sử, với những giáo lý thâm sâu, Công pháp Thượng thừa đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử tư tưởng, văn hoá Trung Quốc và các nước Đông phương, trong đó có Việt Nam. Tông phái ấy hiện nay đang chinh phục Tây phương, mở ra viễn cảnh rộng lớn cho phân tâm học, tâm lý học, y học, văn học nghệ thuật và triết học Tây phương. . .

Chọn môn đệ truyền thừa ''Chính pháp''

Trong thời gian ở Chùa Thiếu Lâm trên Núi Tung Sơn, một hôm có vị cao tăng tên là Thần Quang tìm đến Tổ Đạt Ma cầu Đạo. Thần Quang xuất thân là một sĩ phu học rộng biết nhiều. Nghe danh Tổ, Thần Quang lặn lội tìm đến ra mắt, thiết tha xin Tổ nhận làm môn đệ, nhưng Tổ vẫn im lặng nhìn vào vách núi, nét mặt lạnh lùng, không nói nửa lời. Thần Quang nghĩ: ''Người xưa cầu Đạo, chẳng tiếc thân mình; ta nay dù vất vả, trèo đèo lội suối, nào đã thấm vào đâu”. Hôm đó, mồng 9 tháng Chạp, giữa tiết mùa Đông, chắp tay hướng về phía Tổ, Thần Quang cứ đứng chôn chân với dáng vẻ van xin như thế. Đêm đến, tuyết xuống như mưa, Thần Quang vẫn đứng yên bất động. Mãi đến gần sáng, tuyết ngập quá đầu gối, Thần Quang vẫn trơ trơ đứng đó. Cảm động trước lòng kiên trì cầu Đạo của Thần Quang, Tổ Bồ Đề Đạt Ma quay lại hỏi:

- Ai đứng đó?

- Bạch Tổ, con Thần Quang!

- Ngươi tìm đến ta có việc gì?

- Dạ thưa, con đến bái yết Tổ cầu xin “chân pháp”.

-  Nhọc công vô ích thôi, trừ phi trời rắc tuyết màu hồng.

Vốn sẵn tư chất thông minh, Thần Quang cảm nhận đó là một ám hiệu bóng gió xa xôi mà Tổ gợi nhắc cho mình. Sẵn giới đao trong tay, Thần Quang chặt cánh tay trái đứt rơi xuống tuyết. Máu tươi thấm đỏ tuyết trắng xung quanh, nhìn ra chỉ còn thấy bàng bạc một màu hồng sáng. Cúi xuống nhặt cánh tay vừa chặt đứt, Thần Quang đi ba vòng xung quanh nơi Tổ đang ngồi thiền định, để trước mặt Tổ rồi lại trở về đứng nguyên chỗ cũ.

Thấy Thần Quang chân thành thiết tha cầu Đạo, Tổ chậm rãi nói:

- Các Đức Phật xưa ban đầu cầu Đạo vì pháp quên thân. Nay ngươi chặt cánh tay để trước mặt ta, như thế chứng tỏ đã thành tâm cầu Đạo. Vậy ngươi muốn gì?

Thần Quang bạch:

- Pháp ấn của chư Phật, con có thế được nghe chăng?

- Làm gì có chuyện lấy được pháp ấn của chư Phật qua người khác.

- ''Tâm'' con không an, xin Tổ dạy cho phép an ''tâm'' - Thần Quang khẩn khoản.

- Vậy người hãy đem ''tâm'' ra đây ta an cho.

Thần Quang sửng sốt tìm lại không thấy ''tâm'' thưa:

- Bạch Tổ, con kiếm ''tâm'' mãi mà chẳng thấy.

- Thế là ta đã an ''tâm'' cho ngươi rồi đó.

Nghe Tổ dạy, Thần Quang bỗng nhiên giác ngộ và được Tổ đổi tên thành Tuệ Khả...

Đúng như lời Tổ dạy, trong mỗi con người, những tạp niệm luôn luôn trỗi dậy, thúc bách, giằng xé rối bời, làm ta xao xuyến không yên. Thế nhưng, chúng ta lại thường ngộ nhận, làm chấp những tạp niệm đó là ''tâm" mình, cho nên chẳng lúc nào thấy ''tâm'' mình, chẳng lúc nào thấy ''tâm'' an. Bởi ''tâm'' không an, nên con người bôn tẩu khắp nơi tìm phép an “tâm”. Diệu thuật của Tổ Đạt Ma buộc ta nhìn thẳng lại xem ''tâm'' là gì, thử xem nó có thật hay không mà cầu an. Khi đã vỡ lẽ nó không thật, nó tự lặng lẽ tan biến, đó là an “tâm”. Khi ''tâm'' đã dứt bỏ hết tạp liệm gọi là ''vô niệm" hay “không tâm”. Lúc này không còn hình tướng gì nữa nên gọi là “không”. Tu luyện đạt đến chỗ ''không tâm'' hay ''vô niệm'' sẽ nhận ra cảnh giới ''không'' ấy là chân thực nên Kinh Bát Nhã nói: “tướng là thực tướng”. Và cũng chính vì vậy cửa Thiền thường gọi là cửa “Không”. Và Lục Tổ Huệ Năng sau này đã đi vào cửa này bằng bài kệ mà bất cứ người tu Thiền nào đều biết:

Bồ Đề bản vô thụ,

Minh kính diệc phi đài,

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ hữu trần ai.

Dịch nghĩa:

Bồ Đề không phải cây,

Gương sáng chẳng phải đài,

Xưa nay không một vật,

Đâu còn có bụi trần

Vua Hậu Nguỵ Hiểu Minh nghe Tổ có nhiều sự tích tạ lùng, ba lần sai sứ đến triệu, nhưng Tổ đều chối từ, không chịu xuống núi. Vua càng đem lòng kính trọng, cho người đem đến ban cho Tổ hai áo cà sa và một bình bát bằng vàng. Tổ từ chối nhiều lần, nhưng sau thấy nhà Vua thành tâm dâng cúng, Tổ mới chịu nhận.

Sau chín năm truyền pháp, Tổ thấy cơ duyên đã đủ ý muốn trở về Thiên Trúc, liền gọi các đệ tử đến và hỏi:

- Giờ ta trở về sắp đến, các ngươi hãy nói cho ta biết chỗ ''Sở đắc'' của mình.

Đạo Phó bạch:

Theo sự hiểu biết của con, muốn thấy Đạo, chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự.

Tổ nói:

- Ngươi được phần da của ta rồi.

Ni cô Tổng Trì bạch:

Chỗ hiểu của con cũng giống như Tổ A Nan thấy nước Phật A Súc, chỉ thấy một lần không còn thấy lại.

Tổ nói:

- Ni cô được phần thịt của ta.

Đạo Dục thưa:

- Bốn đại vốn không, ngũ uẩn chẳng có, vậy thì chỗ thấy của con không một pháp nào có thể đạt được.

Tổ nói:

- Ngươi được phần xương của ta.

Bây giờ đến lượt Tuệ Khả. Tuệ Khả bước ra, vái Tổ ba vái rồi trở về đứng nguyên chỗ cũ, chẳng nói chẳng rằng.

Tổ nói:

- Ngươi được phần tuỷ của ta rồi.

Nói xong, Tổ gọi Tuệ Khả đến căn dặn:

- Xưa Như Lai trao ''chính Pháp nhãn tạng'' cho Ma Ha Ca Diếp, từ Ca Diếp, chính pháp liên tục được truyền đến ta. Nay ta trao lại cho ngươi, ngươi hãy cố công truyền giữ, chớ để cho đứt đoạn. Và đây, ta cũng trao luôn cho ngươi áo cà sa và bát quý để làm tin... Hai trăm năm sau khi ta tịch diệt, y bát này sẽ dừng lại không truyền. Ta từ Nam Ấn vượt biển tới đây, thấy có Đại thừa khí tượng, vì “Pháp” tìm người, truyền giáo lý của Đấng Giác Ngộ. Nay đã có người tiếp độ, ý ta đã toại, nhiệm vụ ta thế là đã hoàn thành, và người đọc bài kệ mang tính chất dự ngôn sau:

Ngô bản lại tư thổ

Truyền pháp cứu mê tình

Nhất hoa khai ngũ diệp,

Kết quả tự nhiên thành.

Dịch nghĩa:

Ta nguyện đến đất này,

Truyền pháp cứu người mê.

Một hoa nở năm cánh,

Kết quả tự nhiên thành[2].

Câu chuyện cây trà của Tổ

Trong tác phẩm Thiền Đạo. Alan W.Watt kể rằng, khi tham Thiền, có lần Tổ Bồ Đề Đạt Ma ngủ gục. Tỉnh dậy, Người nổi giận, cắt đứt mí mắt, liệng xuống đất, mọc thành một cây xanh tốt.

Nhân khi khát nước, Tổ lấy lá xanh nấu nước uống liền khỏi buồn ngủ, trí óc tỉnh táo, sáng suốt. Cây xanh đó là cây trà đầu tiên do Bồ Đề Đạt Ma phát hiện. Tục uống trà của người Đông phương bắt đầu từ đó. Về sau, các Thiền sư, khi tụ tập thường uống trà để khỏi buồn ngủ. Các Thiền sư Nhật Bản hàng ngày còn dâng trà lên trước Phật, trước Tổ, nâng tục uống trà lên thành một nghệ thuật, một pháp môn, gọi là “Trà Đạo”. Đối với người Nhật Bản, ''Trà Đạo" tương đồng với “Thiền”, “Trà Thiền nhất vị”. Quả vậy, ý nghĩa của ''Trà Đạo'' chủ yếu không phải ở chén trà, mà là ở ''Thiền ý" thanh tịnh, không linh, siêu thoát ở phía sau những chén trà. Vì thế chỉ có thể cảm nhận được hương vị của “Trà Đạo” trong khung cảnh tĩnh lặng, thanh khiết, yên bình, lúc tâm hồn lắng dịu hiền hoà, ung dung tự tại, tâm niệm như nhất... Trong lịch sử Thiền Tông có ghi câu chuyện về Thiền sư Hạnh Tư, người đứng đầu tăng chủng, học trò của Lục Tổ Huệ Năng, có lần nói: ''Khi chưa tham Thiền, nhìn núi là núi, nước là nước, lúc tham Thiền nhìn núi không phải là núi, nước không phải là nước, tới khi tham Thiền khai ngộ, nhìn núi lại vẫn núi, nước lại vẫn là nước”.

Câu chuyện trên mang một ý nghĩa sâu xa, đồng thời có thể khơi gợi ngộ tính của chúng ta. Vậy tại sao khi chưa tham Thiền nhìn núi là núi, nước là nước? Bởi lẽ thế giới ngoài tâm của những con người bình thường là thế giới thực tưởng hoặc là thế giới vật lý, cho nên nhìn gì thấy lấy. Nhưng khi tham Thiền, con người vượt khỏi thế giới ngoài tâm, trong tâm trí mình, Thế giới thực tưởng không phải là thường hằng nữa, tất cả đều tan biến, tâm vô niệm, nên nhìn núi không phải là núi, nước không phải là nước. Nhưng khi đã chứng ngộ, hai Thế giới trong tâm và ngoài tâm hoà quyện, dung hợp với nhau, con người và đối tượng phút chốc tan hoà thành một, nên nhìn núi lại vẫn là núi, nước lại vẫn là nước. Cho nên chỉ những ai đã trải qua giai đoạn cảm nhận ''là, không phải là, lại vẫn là'' như câu chuyện trên của nhà Phật mới có thể chứng ngộ được chỗ ảo diệu của “Trà Đạo”.

Đề cập đến ''phép Thiền định'', sách Đốn ngộ nhập Đạo yếu môn luận viết: ''Hỏi: hãy nói Thiền là gì? Định là gì? Đáp: Vọng niệm không sinh là Thiền, ngồi thấy được bản tính là Định”. Mục đích tập Thiền là “minh tâm kiến tính”. Minh tâm kiến tính là khắc phục sự quấy rối của những vọng niệm hậu thiên, trong cảnh giới thanh tịnh, hướng nội, nhận thức được bộ mặt chân thực của mình, tức là làm hiển hiện tấm ''gương Tâm'' ngời sáng mà nhà Phật gọi là bản tính chân như...''

Vì vậy, có thể nói, Thiền là trí huệ, là u mặc, là chân tâm, là ánh sáng trong cuộc sống con người, là cảnh giới Chân Thiện Mỹ. Thiền say đắm như túi thơ bầu rượu, thanh khiết như nước suối đầu non, êm nhẹ như gió thu lay động cành dương, trầm lắng như trăng treo đầu núi, vĩnh hằng như Nhật Nguyệt vạn cổ trường không...

Thế nhưng, Thiền “bất lập văn tự”, chẳng thể nói được bằng lời, cho dù có ''lấy hư không làm giấy, lấy sóng trùng dương làm mực, lấy Thánh sơn Fuji là bút viết'' ''Thiền" cuối cùng vẫn phải dựa vào sự diện kiến, sự tu tập, sự trải nghiệm, sự thâm cứu, sự chứng ngộ của mỗi con người.

Đạt Ma Sơ Tổ, hình tượng của Thiền Đông Độ, sẽ vẫn là huyền thoại của muôn đời!




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/165-02-633386838904375000/Nhung-Ton-giao-lon-trong-nen-van-minh-Nhan...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận