Tài liệu: Thiện - ác, nhân - quả trong thế giới tâm linh của đạo Phật

Tài liệu
Thiện - ác, nhân - quả trong thế giới tâm linh của đạo Phật

Nội dung

THIỆN – ÁC, NHÂN – QUẢ TRONG

THẾ GIỚI TÂM LINH CỦA ĐẠO PHẬT

 

Thời xưa có vị tu hành đạo đức cao siêu, thông minh trí tuệ đạo hiệu là Bộtsamôn.

Tuy xuất gia nhưng Ngài rất giàu lòng ưu thời mẫn thế, từng đi sát với thế gian giúp dân hộ nước ròng rã nhiều năm. Ngài phát huy tinh thần tham chính giúp đời làm cho chính thể trong nước ngày càng thịnh trị. Ngài có công lao rất lớn về xây dựng đất nước và dân tộc.

Thế mà vẫn có những kẻ xấu bụng ghen ghét, gieo rắc tai hoạ cho Ngài vô cùng bi thảm (họ vu khống cả tội ác cho Phật). Cả đến nhà Vua cũng có lúc nghe họ gièm pha mà đối đãi không tử tế một thời gian; nhưng ngài Bộtsamôn vẫn một lòng chí công vô tư, tìm phương sách giúp cho dân, cho nước được ổn định trở lại thịnh vượng an bình.

Trong những cuộc vấn đáp về đường lối cai trị với quốc vương tên là Lâm Đạt, Ngài Bộtsamôn đáp lại bằng những lời vàng, ý ngọc rất cao quý.

Xin đúc kết những lời Ngài đã dạy tóm tắt như sau:

A - Xuất phát từ chỗ tự giác của Ngài:

1) Thương xót dân chúng như mẹ thương con;

2) Muốn độ thoát cho thế gian hết mọi nỗi khốn khó;

3) Trừ diệt mọi mối ngu si;

4) Gặp vui không mừng, gặp khổ không ngại;

5) Hiểu được lẽ Đạo, lòng thường yên vui;

6) Giữ gìn đức hạnh, không phạm tội lỗi.

7) Đoạn trừ tham lam.

8) Dứt bỏ giận dữ.

B - Thực hành giác tha; trả lời những điều nhà Vua hỏi về chính sự:

Ngài Bộtsamôn nói:

Ở đời có thịnh ắt có lúc suy, có hội hợp hẳn có ly tán, lành dữ vô thường, hoạ phúc tự mình chuốc lấy. Kết bạn mà không bền chắc thì không nên gần họ. Gần mà không có mức độ, gần lâu sẽ sinh khinh nhờn. Ví như múc nước giếng, múc sâu thì vẩn bùn lên. Gần người hiền được thêm trí tuệ, thân kẻ dốt dại càng thêm ngu si. Thường gặp nhau thì dễ khinh nhờn, xa cách nhau thì hay oán giận. Giao tiếp với người lành nên qua lại có chừng mực, gần mà có cung kính thì gần nhau lâu càng có hậu. Chơi với kẻ bất lương, họ ăn ở không thực thà, lời ngon lặng ngọt chẳng qua là để lợi dụng mình, dù cho có kết hợp với nhau cũng không nên tin. Vua lấy lễ độ tiếp tôi, tôi cung kính đáp lại, nếu Vua đối đãi khinh rẻ thì tôi phải xa cách. Thương yêu nhau rồi lại có sự ghen ghét nhau, khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì lại chẳng muốn gần. Lấy sự tôn trọng nhau để cầu thân thiện, lấy sự răn bảo nhau để tránh điều ác. Nay có người không phân biệt cái nào là cái ác, cái nào là cái thiện, đấy chẳng phải là chỗ yên thân. Người không có lỗi với mình thì mình không nên đem sự sai lầm mà gieo cho họ. Người ác thờ kính mình, mình không nên lĩnh nhận. Người muốn xa ta thì ta không nên miễn cưỡng gần họ. Sự thương yêu đã xa lìa thì không nên nghĩ đến nữa.

Con chim đậu cành khi cành này bị gãy còn biết đi tìm cành khác mà đậu, huống chi làm người qua lại có pháp độ hà tất phải chấp nhặt thủ thường. Cành mục nát ta không nên vin nắm, người loạn ý ta đừng nên trông nhằm vào họ. Người muốn đem cái xấu giá vào cho nhau dù thấy nhau cũng không vui. Ta xướng lên mà người chẳng họa theo, nên biết đó là người hờ hững. Người muốn đem sự chẳng lành cho nhau thì dù mau dù chậm cũng phải lánh đi, đem lời trung chính nhắc nhở nhau thì đủ biết người ấy là người đôn hậu. Thấy những người không chịu gần bậc hiền, không lánh xa kẻ dữ, trước kính sau khinh, không phân biệt người hiền kẻ ngu, thì nếu ta không đi còn đợi đến bao giờ mới đi. Bạn trí thức gặp nhau, chủ đãi khách đêm đầu thì quý trọng như vàng, đêm thứ hai thì kém đi như bạc, đêm thứ ba thì lạnh ngắt như đồng...

Trong thiên hạ có bốn điều tự hoại: 1) Cây có nhiều hoa quả thì nặng quá sẽ gẫy cành. 2) Rắn độc ngậm nọc độc thì nọc ấy sẽ trở lại hại nó. 3) Kẻ làm tôi (làm việc nước) không hiền thì sẽ hại nước. 4) Kẻ làm điều bất thiện thì sau khi chết sẽ đọa địa ngục. Đó là bốn điều tự hoại. Vậy nên trong Kinh dạy rằng: ''Sự độc ác do tâm sinh ra, sẽ trở lại tự hại thân mình, cũng như sắt sinh chất gỉ, chất han gỉ ấy lại làm tiêu huỷ thân hình của sắt”.

Người ta có bốn điều tự nguy: 1) Gánh vác việc nhà người ta; 2) Làm chứng những việc riêng của người ta; 3) Làm mối cho vợ chổng người ta; 4) Nghe lời xúc xiểm. Đó là bốn điều tự nguy. Vậy nên trong Kinh dạy rằng: ''Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy tai hoạ về mình. Đời nay thoả lòng, giống ý, đời sau mang tội nặng nề”.

Bạn bè có bốn thứ: 1) Kết bạn như hoa; 2) Kết bạn như cân; 3) Kết bạn như núi; 4) Kết bạn như đất.

Sao gọi là kết bạn như hoa? Nghĩa là: như bông hoa khi còn tươi tốt thì cài trên đầu, lúc héo tàn thì vất bỏ đi. Lối kết bạn này cũng thế, thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn thì lìa bỏ phớt lờ nhau đi.

Sao gọi là kết bạn như cân? Nghĩa là: như cái cân khi để một vật nặng thì đầu cân gục xuống, lúc vật nhẹ thì đầu nó vồng lên. Lối kết bạn này cũng thế. Có gì qua lại thì quý trọng nhau, không được như vậy thì khinh rẻ nhau.

Sao gọi là kết bạn như núi? Nghĩa là: như quả núi vàng, chim muông tụ họp lông cánh rực chói màu vàng. Lối kết bạn này cũng thế, khi sang thì cùng sang với nhau, khi vui thì cùng vui với nhau.

Sao gọi là kết bạn như đất? Nghĩa là: tất cả mọi vật đều nương nhờ vào đất mà sinh ra. Lối kết bạn này cũng thế, làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ bạn, thì mang ân nghĩa không bao giờ quên.

Người có trí biết bốn thứ người không thể tin: 1) Người bạn tà nguỵ. 2) Người dưới quyền có tính xiềm nịnh. 3) Vợ ác nghiệt. 4) Con bất hiếu. Đó là bốn thứ ngươi không tin tưởng được. Vì thế Kinh dạy: ''Bạn tà hại người, tôi nịnh sinh loạn, vợ nghiệt tan nhà, con hư hại thân “bố mẹ”.

Có mười trạng thái tỏ cho biết là có sự yêu quý hậu tình: 1) Xa nhau lâu không quên; 2) Thấy nhau thì mừng vui; 3) Thấy của ngon vật lạ thì san sẻ cho nhau; 4) Khi có lỡ lời không chấp chỉ nhau; 5) Nghe nói điều lành càng thêm vui vẻ; 6) Thấy việc dữ thật lòng can ngăn; 7) Thường hay làm được những việc khó làm; 8) Không đem chuyện nặng nói với người khác; 9) Gặp việc bối rối giải quyết cho nhau; 10) Đến lúc nghèo khổ không rời bỏ nhau. Đó là mười sự yêu quý hậu tình. Vậy nên trong Kinh dạy: ''Bỏ dữ làm lành tụ tập như pháp; lời hay dạy dỗ, nghĩa hiệp đạo tâm”.

Có tám triệu chứng biết là không ưa nhau: 1) Trông thấy nhau liền đổi nét mặt, 2) Liếc nhìn không ngay thẳng; 3) Lời nói không ôn hoà; 4) Nói phải cho là trái; 5) Nghe thấy người sa sút thì vui thích; 6) Nghe thấy người thịnh vượng thì không vui; 7) Chê bai việc tốt đẹp của người, 8) Tán thành điều tệ ác của người. Vậy nên trong Kinh dạy rằng: ''Lỡ đánh chết người, tội ấy còn có thể giảm nhẹ; cố ý âm mưu thâm độc hại người, người có ác tâm ấy phải để phòng tránh xa”.

Có mười sự chứng tỏ là người trí. 1) Biết ai hiền ai ngu; 2) Biết người sang, người hèn, 3) Biết kẻ giàu người nghèo; 4) Biết việc nào khó, việc nào dễ; 5) Biết việc nào đáng bỏ, việc nào đáng làm; 6) Biết nhiệm vụ của mình, 7) Vào nước nào biết được phong tục của nước ấy; 8) Biết được nơi trở về; 9) Học rộng hiểu nhiều, 10) Biết được túc mạnh[1]. Đó là mười sự chứng tỏ người có trí. Kinh dạy rằng: "Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đấu chọi nhau mới biết kẻ yếu người khoẻ, có bàn bạc mới biết ai là người thông minh, lúc thóc cao, gạo kém mới biết người nào nhân đức''.

Có tám điều được yên ổn: 1) Được của cha mẹ để lại; 2) Có nghề nghiệp bảo đảm sự sống của mình; 3) Học thức cao sâu; 4) Được  người bạn hiền; 5) Được người vợ trinh lương; 6) Được người con hiếu thảo; 7) Người trong nhà hoà thuận; 8) Lìa xa các điều dữ. Đó là tám điều được yên ổn. Kinh dạy rằng: ''Sinh ra sẵn có của cha mẹ để lại và được gặp bạn hiền rất cần thiết, các việc ác không phạm phải và có phước thừa là rất yên vui”.

Có tám điều ưa thích: 1) Cùng làm việc với người hiền; 2) Được học với bậc Thánh nhân; 3) Tính nết nhân từ hoà nhã; 4) Sự nghiệp mỗi ngày được hưng thịnh; 5) Diệt được tính giận dữ; 6) Biết lo xa phòng ngừa tai nạn; 7) Biết nương vào Đạo  pháp; 8) Bạn bè không lừa gạt nhau. Đó là tám điều ưa thích. Kinh dạy rằng: ''Có phật ra đời rất thích, diễn giảng Đạo pháp rất thích, chúng tăng hoà hợp rất thích; hoà thuận thường được yên vui”.

Có mười trường hợp mà mình không thể khuyên can: 1) Tham lam che lấp mất lương tri; 2) Giận dữ quên cả phải trái; 3) Ham đắm sắc đẹp; 4) Ngang tàng bạo ngược; 5) Đớn hèn nhút nhát; 6) Khờ dại lù đù; 7) Kiêu ngạo ngông nghênh; 8) Tính hay cãi cọ; 9) Tập tục si mê; 10) Tư cách đê tiện. Đó là mười trường hợp mà mình không thể khuyên can. Kinh dạy rằng: ''Nói pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hoá độ thì không dễ khuyên can được họ”.

Có mười trường hợp mà mình không nên nói với người ấy: 1) Kẻ kiêu ngạo; 2) Kẻ ngu đần; 3) Kẻ hay lo lắng; 4) Kẻ ham hưởng lạc; 5) Kẻ hay nhát sợ; 6) Kẻ câm ngọng; 7) Kẻ có hằn thù; 8) Kẻ bị đói rủn; 9) Người bận nhiều việc; 10) Vi đương tu Thiền tính lự. Đó là mười thứ người không nên nói chuyện với những người ấy. Kinh dạy rằng: ''Làm được hãy nên nói, không làm được thì đừng nói suông, lời hư ngụy không thành tín thì các bậc minh triết không thèm đoái đến”.

Có mười triệu chứng biểu hiện cho ta thấy có vẻ khác thường: 1) Đầu tóc rối bời và tóc xoã một bên; 2) Mặt hay biến sắc và mồ hôi tự nhiên toát ra; 3) Lớn tiếng nói cười; 4) Liếc ngó chung quanh không được trang nghiêm; 5) Trang sức lộng lẫy, 6) Hay nhòm trộm qua kẽ vách; 7) Ngồi không yên chỗ; 8) Hay dạo chơi trong xóm làng, 9) Hay ngao du ngoài đồng vắng; 10) Hay chơi bời với những dâm nữ. Đó là mười trệu chứng khác ý. Kinh dạy rằng: ''Phụ nữ chỉ tin được từng người, lời nói đường mật rất dễ hại nhau; vì vậy bậc cao sĩ lánh xa không muốn gần gũi”.

Có mười điều không nên tin và gần gũi được: 1) Vua tôi hậu đãi; 2) Tình nhân của một người đàn bà mình quen; 3) Kẻ ỷ sức mình; 4) Kẻ dựa vào tiền sử; 5) Chỗ nước chảy xiết; 6) Chỗ nhà cũ, tường xiêu; 7) Hang hầm của rắn ở; 8) Nơi cơ quan tra xét; 9) Chỗ có kẻ thù giận mình; 10) Chỗ có sâu bọ độc. Đó là mười điều nên phải cẩn thận giữ mình. Kinh dạy rằng: ''Những ai bảo uống rượu không say, đã say không điên loạn và được Vua hậu đãi, phụ nữ say đắm mình, tất cả điều ấy đều rất khó tin cậy”.

Có năm thái độ đáng ghét: 1) Ác khẩu hại người; 2) Gièm pha nịnh hót; xúi giục sự gây gổ; 3) Hay mâu thuẫn không hoà thuận; 4) Hay ghen ghét trù dập; 5) Nói hai lưỡi, sinh chia rẽ, hại nhau. Đó là năm thái độ đáng ghét, Kinh dạy rằng: ''Làm cho kẻ khác bị hại chẳng hay mà mình mong lấy hay về phần mình, thì chỉ rước vạ vào thân, tự gây lấy oán thù sâu nặng”.

Có năm tính tốt được người kính trọng: 1) Nhu hoà nhẫn nhục; 2) Cung kính và có tín tâm; 3) Mau mắn và ít nói, 4) Lời nói đi đôi với việc làm; 5) Đối với bạn, càng lâu càng thân hậu. Năm đức tín này làm cho người ta cung kính mình. Kinh dạy rằng: “Nếu biết thương lấy mình thì phải dè dặt giữ mình; các bậc hiền sĩ có chí hướng thượng cao xa, học hiểu chính đáng, thì không bao giờ lầm lạc”.

Năm nguyên nhân như sau bị người khinh rẻ: 1) Kẻ râu dài mà ngạo mạn; 2) Quần áo nhơ bẩn; 3) Thiếu trí suy nghĩ; 4) Dâm ô vô lễ; 5) Chơi bời bừa bãi. Đó là năm điều làm cho người ta khinh mình. Kinh dạy rằng: ''Giữ gìn thu tiếp ý tưởng vào chỗ chính, cũng như ngựa theo dây cương, không kiêu không mạn, thì được mọi người, bậc trời đều tôn kính”.

Có mười kẻ mà mình không nên mời về nhà: 1) Thầy tà; 2) Bạn ác; 3) Kẻ hay khinh rẻ bậc Thánh nhân; 4) Kẻ hay nói giáo giở; 5) Kẻ dâm ô; 6) Nghiện rượu; 7) Có tính xấu; 8) Không biết ân nghĩa; 9) Những phụ nữ mất nết; 10) Người hèn mọn lại hay thích trang điểm cho rõ đẹp. Đó là mười hạng người không nên mời về nhà. Kinh dạy rằng: ''Lánh xa kẻ ác, đừng làm bạn với hạng dâm đãng, chỉ nên tòng sự các bậc hiền giả, mới mong thành người nhân đức”.

Có tám điều khiến được yên vui: 1) Vâng thờ kính thuận các bậc sư trưởng; 2) Đem điều hiếu thuận dạy cho nhân dân; 3) Khiêm nhường đối với người trên, kẻ dưới; 4) Phải tập tính nhân từ, hoà nhã; 5) Cứu người trong cơn nguy cấp; 6) Quên mình mà nghĩ đến người, 7) Thu thuế nhẹ và thực hành tiết kiệm; 8) Bỏ hận thù xưa. Đó là tám điều khiến được yên vui. Kinh dạy rằng: ''Chuyên tu cội đức nghĩ trước rồi sẽ làm, cứu giúp người trong cơn nguy cấp, nghèo khổ, thì trọn đời được yên vui”.

Bậc trí giả có mười hai điều luôn luôn phải nhớ kỹ: 1) Khi gà gáy sáng đã nghĩ đến tội lỗi mà lo làm việc phúc đức để đền bù lại; 2) Nhớ bổn phận hầu hạ bậc tôn thân; 3) Gặp việc gì phải suy nghĩ chuẩn bị tư tưởng trước; 4) Phải lo nghĩ cách xa sự nguy hại; 5) Phải nghĩ trước, nói sau để khỏi mắc sai lầm; 6) Phải nghĩ đến những kẻ lầm lạc mà lấy lời trung chính dạy bảo nhắc nhở họ; 7) Phải nghĩ đến những kẻ nghèo khổ để thương xót giúp đỡ; 8) Phải lo làm việc bố thí nếu mình có của; 9) Phải giữ sự ăn uống cho có chừng mực, 10) Phải nhớ giữ công bằng khi xử sự hoặc phân chia; 11) Phải nhớ đem nhân từ ban bố cho dân gian; 12) Phải thường nghĩ đến sự học tập huấn luyện nếu mình là chính trị viên hay võ quan. Đó là mười hai điều mà người thức giả phải nghĩ đến. Kinh dạy rằng: ''Làm việc gì nên phải dự liệu trước, như vậy sự nghiệp lớn mới sẽ mỗi ngày một lớn, không bị thất bại”.

Bậc đại hiền có mười nết tốt: 1) Học rộng hiểu nhiều; 2) Không vi phạm luật pháp; 3) Thờ kính tham khảo; 4) Lĩnh thụ pháp lành không quên; 5) Kiềm chế được tham, sân, si, 6) Tụ tập được phép tứ đẳng tâm (từ, bi, hỉ, xả); 7) Ưa làm việc ân đức; 8) Không não hại chúng sinh; 9) Hãy hoá độ được người bất nhân bất nghĩa; 10) Không lầm lẫn việc lành việc dữ. Đó là mười nết tốt. Kinh dạy rằng: “Gặp được bậc đại hiền rất khó - lại hiếm có vị đại hiền - các bậc ấy ở đâu thì bà con họ hàng và người xung quanh đều được thơm lây nhờ cậy”.

Kẻ đại ác, tóm có mười lăm tội lỗi đáng kể: 1) Hay sát hại; 2) Trộm cắp; 3) Dâm ô; 4) Dối trá; 5) Nịnh hót; 6) Nói thêu dệt; 7) Hay gièm pha; 8) Khinh bậc hiền nhân; 9) Hám sự ô trọc; 10) Tính hay giông giỡ; 11) Chỉ hay say sưa; 12) Ghen ghét người hơn; 13) Huỷ báng đạo đức; 14) Giết hại bậc Thánh; 15) Không chịu nhận tội lỗi. Đó là mười lăm điều tội ác của kẻ phàm ngu. Kinh dạy rằng: ''Gian, ngược, tham lam, oán người lương thiện, làm việc bất chính thì khi chết phải sa vào ngả dữ”.

Người đời có mười điểu đáng phải hổ thẹn: 1) Làm Vua không hiểu chính trị; 2) Bậc dưới mà vô lễ; 3) Chịu ơn không lo đền đáp; 4) Có lầm lỗi không chịu sửa đổi; 5) Một vợ hai chồng; 6) Chưa cưới đã có thai; 7) Học tập không thành; 8) Có binh khí mà không chiến đấu; 9) Kẻ bủn xỉn tỏ ra khi thấy người bố thí; 10) Là người phục vụ mà chủ không sai bảo được. Đó là mười điều đáng hổ thẹn. Kinh dạy rằng: ''Những ai biết hổ thẹn đều là người dễ dạy, rất dễ tiến lên, cũng như điều khiển thứ ngựa hay”.

Có mười hai điều khó: 1) Làm việc với người ngu; 2) Yếu đuối mà chống lại sức mạnh; 3) Thù ghét nhau mà ở chung với nhau cùng một nhà; 4) Học ít mà đứng ra nghị luận; 5) Nghèo nàn mả trả được nợ; 6) Ra trận không có tướng; 7) Trung nghĩa trọn đời; 8) Học đạo mà thiếu tín tâm; 9) Làm ác mà muốn quả báo tốt; 10) Sinh ra đời được gặp Phật; 11) Được nghe chính pháp của Phật, 12) Làm theo chính pháp mà làm được thành tựu. Đó là mười hai điều thật khó. Kinh dạy rằng: ''Được làm loài người là khó, gặp Phật ra đời là khó, được nghe giáo pháp là khó, vâng làm theo được là khó”.

Người có trí tuệ đại yếu hiểu biết bốn mươi lăm việc: 1) Sửa sang nhà cửa; 2) Gây bầu không khí hoà hợp trong gia đình; 3) Đoàn kết với chín họ; 4) Tin tưởng được bạn bè; 5) Theo học bậc minh sư, 6) Làm việc gì quyết cho được thành tựu; 7) Tài cao trí rộng; 8) Mọi hành vi đều hướng về việc lành; 9) Giàu sang thì lo việc phúc đức; 10) Việc xây dựng sửa sang phải thận trọng; 11) Có của phải mở mang sự nghiệp; 12) Không giao của cải cho con cái còn nhỏ tuổi; 13) Kết bạn với người hiền; 14) Không quá tin những ai mà mình mới quen biết; 15) Tiền của công đem về đừng để ở nhà lâu; l6) Mua bán, đổi chác phải thật thà, không thiên thẹo lừa gạt; 17) Dời chỗ ở đến nơi nào phải xem trước nơi ấy; 18) Đến đâu nên biết nơi đó là giàu hay nghèo;19) Thường giao thiệp gần gũi với người lành; 20) Biết dựa vào một thế lực tốt; 21) Đừng tranh hơn kém với kẻ cường bạo; 22) Xưa giàu có mà nay sa sút thì mong phục hưng gia nghiệp; 23) Nếu là nghèo khổ thì đừng có cao vọng to tát vội; 24) Có của quý không nên khoe với ai; 25) Việc bí mật đừng nói hở cho vợ nghe biết; 26) Làm bậc nhân chủ phải biết kính trọng người hiền đức; 27) Ăn ở có hậu, nhất là đối với các bậc trung tín; 28) Nếu là người thanh liêm có thể dùng giúp nước hay đứng ra trị nước; 29) Gặp việc phải lo lập công; 30) Trong công cuộc giáo hoá lấy sự hiếu thuận làm căn bản; 31) Phép tắc của bậc làm thầy là quý sự tươi tốt ôn hoà, như thế học trò sẽ tôn kính; 32) Thầy có nhiều học trò phải chăm dạy họ làm việc trung nghĩa; 33) Làm thuốc phải có hiệu nghiệm, nếu nghề nghiệp còn vụng kém chớ đem ra thi thố ngay; 34) Đau ốm phải nghe lời thầy thuốc chỉ bảo; 35) Ăn uống phải có điều độ; 36) Có của ngon vật lạ nên chia xẻ cho nhau đừng có keo kiệt, 37) Cho gì ai hoặc ai vay mượn gì thì tự tay mình trao cho họ; 38) Làm chứng cho người chân chính; 39) Đừng vu oan cho người vô tội. 40) Can gián những người giận nhau làm cho trở lại thuận hoà; 41) Nhẫn nại và xa lánh việc ác; 42) Đừng phân biệt giàu nghèo mà đối xử với người ta; 43) Lấy sự hoà nhã làm quý; 44) Theo Đạo thì phải giữ giới pháp; 45) Lấy sự trong sạch làm quý báu hơn.

Trong trần thế chỉ có Đạo Niết bàn là cao quý hơn hết.

Vì sao? Vì Niết bàn là cảnh giới không có già nua, bệnh tật, chết chóc, đói rét, tai nạn nước, lửa...; không có oán gia, trộm cướp, dục vọng ái ân, lo buồn khổ não, không tất cả mọi cảnh khổ sở đau đớn. Cảnh giới ấy gọi là diệt độ. Diệt độ không phải là một sự chết, mà là cảnh giới hoàn toàn trong sạch tự tại giải thoát, diệt trừ phiền não, độ quá sinh tử. Cảnh giới rất mực yên vui, một niềm vui mỹ mãn vô biên, có thể kiến lập ngay trên trận thế cho riêng mình và chung cả hết thẩy chúng sinh. Bệ hạ hãy tự liệu, tự tu, tự tỉnh ngộ lấy mình. Bệ hạ hãy tự thương lấy bệ hạ.

Nhà Vua - Còn điều gì nữa không xin ngài dạy răn thêm cho Trẫm được biết rõ?

Ngài Bôtsamôn - chỗ đất bị nước mạnh xoáy lở, thì dù một trăm năm sau cũng đừng xây dựng một cái gì trên đó; vì dòng nước sẽ theo thói cũ mà lôi cuốn đi mất cả. Người có ác tâm mà bây giờ mà họ bảo mình là bắt đầu làm lành, thì mình cũng không nên tin vội, vì tâm của họ chưa diệt, họ sẽ trở lại làm ác, nên ta phải dè dặt. Người muốn làm việc gì phải liệu làm dần dần, như người đào giếng, đào mãi xuống sâu sẽ có mạch nước. Người trí thức thấy sự nguy hiểm và bất bằng giữa thế sự, thì hãy ra tay cứu giúp, cũng như người có tài bơi lặn có thể lội ngang qua dòng nước chảy xiết.

Chỗ vấn đáp của người trí thức bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường; không lời nào  của họ không phải là lời nói lành. Bậc thầy bao giờ cũng chính đáng và những đức tính này chứng tỏ rằng người đó là bậc trí giả: Nhân từ, mềm mỏng, cẩn thận, chắc chắn, ôn tồn, nhã nhặn, lời nói uyển chuyển và hay hâm mộ các việc tốt lành, Bệ hạ đừng có nghi nan gì nữa.

Nghe lời nói, thấy việc làm của họ thì xét cái tâm với miệng giống nhau. Xem cách cư xử, vẻ đi đứng của họ thì biết được làm không có giả dối, nghiệm việc làm, cách ăn mặc, sự hành động cũng đủ biết là bậc trí tuệ.

Đàm luận với người trí thức phải cho vừa ý họ, mà muốn vừa ý họ cũng không phải là dễ.

Kính mà đừng khinh thường, nghe lời dạy phải làm theo, vì chỗ hiểu biết của người trí thức rất đúng đắn, bao giờ người ta cũng có thể theo chính Đạo mà không có tâm tham cầu; mà có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Tầm nhìn của người trí thức rất rộng; hay thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là một sự biến hiện, muôn pháp đều theo quy luật: quay về “nhất điểm không tịch bản nhiên”.

Người giác ngộ chân lý trên thế gian nhìn thấy rõ ràng: đời chỉ là một sự biến đổi tang thương, trẻ trung rồi già nua, cường tráng rồi suy nhược, có sống thì mới có chết, giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên khi yên ổn phải nghĩ đến lúc nguy nan, khi hưng thịnh phải nghĩ đến lúc suy đồi; người lành nên kính mến, người dữ phải xa lìa. Tuy có ai xúc phạm mình cũng nên dẹp bỏ cái tâm tức giận, đừng vì thế mà gây ác nghiệp hại người. Nhu hoà mà người khó xâm phạm, mềm mỏng mà người khó thắng ta. Người trí thức tốt như vậy đó, nên ta không thể coi thường.

Người trí thức theo phép Thánh hiền, thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ ngu muội trở nên sáng suốt. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho những ai là người tốt, người tu hành thì lo dẫn dắt mọi người về chính Đạo. Nhà nước tai biến thì cũng cùng nhau đàm luận lo toan, tới lui phải thức thời mới khỏi bị sự nghi ngờ oán trách. Dù có ơn rộng đức lớn với mọi người, nhưng đừng mong cầu ai báo đáp; thờ kính người trí thức thì được sự tốt mà không mắc phải tai nạn. Bệ hạ đừng có nghi nan. Làm chính trị không nên trái với đạo lý, dạy dân làm lành thì càng ngày càng thêm lợi dân ích nước.

Nhà Vua nghe đến đây thì cảm động khóc lóc, nước mắt tuôn rơi, ăn năn mọi điều lầm lỗi trước kia!

Ngài Bộtsamôn lại êm đềm nói tiếp Vua nghe.

Vì như người không có tài bơi lặn thì không nên xuống dưới nước sâu; biết người cừu hận với ta, ta cũng không nên hại họ. Đời có thân hận nhau, có gây gổ với nhau rồi có xin lỗi nhau, dẫu hoà giải khéo đến đâu chẳng bằng trước khi khơi dậy sự xung đột nhau. Nay người hiền thiện mà bệ hạ không khen thưởng, trái lại nghe lời gièm pha mà sinh sự não nùng.

Bộtsamôn đây cũng như con chim bay, không nhất định cứ đậu nguyên ở một cành nào. Đạo pháp của tôi không thể lẫn với những lỗi lầm để mất cả thanh cao, quý giá. Cũng như lửa cháy ngoài cánh đồng có những cây nào chung quanh gần đó sẽ bị cháy xém, hễ chỗ nước xoáy là thuyền bị quay, hễ chạm vào trùng độc là hại người. Vì thế tôi muốn tòng sự với người trí thức để khỏi bị cảnh ngu hèn quấy nhiễu. Tôi đã rõ: Cỏ cây mỗi thứ mỗi khác; loài chim muông cũng vậy: bạch hạch thì lông trắng, chim quạ thì lông đen. Vậy nay tôi khác mà ai kia cũng khác. Người trí thức phải biết tiến thoái ở từng lúc nào? Ví dụ như đem cái áo lụa đẹp mặc cho người nông dân để đi cày ruộng hàng ngày là thất cách. Vì sao? Người nông dân đương phải lam lũ kia chỉ có là chân lấm, tay bùn, mặc làm chi tấm lụa đẹp giữa lúc này, có cố mặc cho cũng chỉ làm phí áo này mà thôi.

Nhà Vua nên biết: ở đời có một thứ cây tên là cây Phản Lệ, người chủ trồng nó thì không được hưởng quả, mà kẻ muốn hái trộm thì quả lại cứ sinh ra cho mà hái. Bệ hạ cũng như trái cây ấy đấy! Người giúp nước được yên ổn thịnh vượng lại nghe kẻ xấu hắt hủi muốn đuổi đi, những tên nịnh thần gian ác phá hoại việc triều chính lại được đàng hoàng vinh thân phì gia ngồi hưởng bổng lộc. Khách ở lâu chủ nhà sinh nhàm chán.

Bệ hạ lúc này tuy có những lời thiết tha lưu luyến nhưng chưa chắc đã làm được như lời của mình nói. Phu nhân của bệ hạ là người độc ác. Bần đạo nay mang bình bát đi khất thực tu hành, dứt trừ tham vọng, lấy Đạo làm vui, giữ gìn giới luật, xa lìa những cái ràng buộc nặng nề.

Ngài Bộtsamôn nói tiếp: Người thông minh nghe câu thí dụ cũng đủ rõ: Như người lấy mật bôi vào lưỡi dao, con trẻ liếm vào, vì tham chút mật ngọt nên bị đứt lưỡi! Nay bốn quan cận thần của nhà Vua cũng thế, chỉ ngon ngọt ngoài miệng mà trong lòng dường như dao sắc. Vậy bệ hạ phải hết sức đề phòng.

Loài chim cú mèo thì ưa ở bụi rậm, chuột bọ thì ưa núp dưới vẩn rác cỏ rơm, chim chóc thì đậu trên cành cây chỉ có con hạc là ưa ở gần ao nước. Bột tôi thì mến Đạo, nhà Vua thì ưa việc trị dân, đó là hai đằng khác nhau.

Thấy con chó tân kỳ hiện ra điểm gở, nó sủa cắn một cách lạ lùng chưa từng có thì đủ biết rằng không trong thì ngoài đã có âm mưu sắp đặt gì rồi?! Phải như con chim khôn, ban đầu đậu ở cành thấp, sau thì nhảy lên cành cao.

Nói xong đến đây, vị Bộtsamôn đứng dậy từ biệt mang bình bát, chống tích trượng đi khỏi kinh thành nhà Vua.

Thời gian sau, khi vị Bộtsamôn dời thành đến ở một nơi A-lan-nhã chuyên tâm tĩnh mịch tu trì, trong nước xảy ra rối ren, khắp đó đây ngày càng dữ dội, các tầng lớp nhân dân lầm than khổ sở, đều cùng oán trách nhà Vua!

Nhà Vua vô cùng hối hận, liền cậy một vị đạo nhân chỉ đường và giúp đỡ rồi sai sứ thần đi tìm mời cho kỳ được ngài Bộtsamôn trở về kinh thành, Nhà Vua chịu hạ thân giãi bày tạ tội.

Ngài Bộtsamôn nói: Người có tội lỗi biết sám hối là hay.

Ngài Bộtsamôn giảng diễn: nhân nào quả ấy như bóng với hình không hề thất lạc; người gây nhân lành thì được hưởng phúc quả lành, kẻ tạo nhân dữ thì phải chịu tội báo dữ.

Tất cả hiện tượng trong Vũ trụ đều do nghiệp lực dựa vào phúc hay tội mà hoá sinh ra.

Như gieo giống, tuy hạt giống còn dưới đất, nhưng nó sẽ sinh thành cây, nảy lộc đâm chồi, khai hoa kết quả trên ngọn; thắp đèn viết thư, tuy đèn tắt nhưng các thứ chữ vẫn còn mãi. Thức thần theo hành nghiệp truyền sinh sang đời khác không hề gián đoạn.

Trong nước có Vua, Vua phải có lòng nhân đạo; sử dụng người thông minh tài đức làm việc nước thì mới yên và hưng thịnh được.

Bần đạo lại xin kể một sự tích: thuở xưa có một ông Vua tên là Cầu Lạp có một cái ao nuôi nhiều thứ “cá ngọt”. Vì cá ngọt xương ít mà thịt ngon nên nhà Vua cử một viên quan giám ngư (coi cá) để giữ ao cá đó. Mỗi ngày phải dâng Vua tám con, nhưng quan giám ngư mỗi ngày cũng ăn cắp tám con. Vua biết mất cá nên cử tám quan giám ngư cùng coi cá. Song tám quan giám ngư này lại thông đồng với nhau, hàng ngày mỗi người lại ăn cắp đi tám con. Té ra cứ nhiều người giữ cá chừng nào thì cá lại mất nhiều lên chừng ấy. Bệ hạ đây cũng vậy, tin dùng nhiều người luộm thuộm, gian tham thì nước nhà càng thêm rối loạn. Cũng như hái quả non, ăn đã không ngon mà lại mất giống. Trị nước không dùng người hiền thì chỉ có hại cho nước cho dân, cả thanh danh liền phúc phận đều bị mất hết.

Trị nước bất chính thì làm cho những kẻ manh tâm sinh chiếm đoạt, việc nước không sửa sang xây dựng được khiến cho Quốc gia ngày càng hèn yếu suy đồi.

Làm việc trung chính cũng như đi thẳng đường, lấy việc trung chính làm cội gốc thì mọi người đều khâm phục. Như thế sẽ gây được hạnh phúc, thái bình, thịnh trị. Lại phải sáng suốt lượm nhặt những người đời xưa để làm kinh nghiệm cho đời nay, động tĩnh phải tức thời, ân uy cho hợp lý, ban bố ân huệ cho nhân dân phải đúng đối tượng xứng đáng được như vậy thì thế nào mà chẳng yên vui, dân giàu nước mạnh, đi theo con đường Đạo lành nhất định được giác ngộ tiến lên.

Khi đó, Phật liền dạy rằng: ''Này các ngươi nên biết: vị Bộtsamôn thời ấy, có phải ai đâu xa lạ, chính là thân trước của ta đây. Vị đạo nhân cháu vị Bôtsamôn[2] nay là ông át na. Vua Lâm Đạt thuở ấy chính là Vua Ba Tư Nặc nước KiêuTátLa vậy. Phu nhân khi ấy thì nay là nàng TônĐàLị. Con chó tân kỳ là XaNặc. Bốn quan cận thần là hồn kẻ ngoại đạo lập mưu giết nàng TônĐàLị, vu cáo cho ta ngày nay…

Các người nên biết rằng: ''Theo Đạo Bồ Đề ta đã thực hành trong vô số kiếp, làm lành chịu khổ, tích công góp đức từ vô lượng kiếp, nay vì chúng sinh thành Phật cứu độ và bản nguyện nay đã thành tựu tròn đây”.

Phật lại dạy: ''Này các ngươi, các ngươi nghe lời Kinh pháp này rồi, nên siêng năng làm theo các điều lành, đừng có ngại ngùng lười biếng. Tinh tiến tu hành được lợi ích lớn”.

THÍCH THIỆN NHÂN BỒ TÁT

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/165-02-633386838145781250/Nhung-Ton-giao-lon-trong-nen-van-minh-Nhan...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận