Tài liệu: Kiến trúc Ấn Độ

Tài liệu
Kiến trúc Ấn Độ

Nội dung

KIẾN TRÚC ẤN ĐỘ

 

Cùng với tiến trình phát triển kiến trúc Châu Âu, Ấn Độ và Trung Quốc thuộc Châu Á cũng là những trung tâm văn hóa lớn, có những nền kiến trúc phát triển rực rỡ.

Từ 3000 năm Tr.CN, những người Ấn Độ tiền sử đã là những người tiền phong trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật quy hạch đô thị. Những thành phố Môhengiô Đarô và Sanhu Đarô, Harappa lúc hấy giờ rất rộng lớn, vuông vắn, có kỹ thuật xây dựng đường sá, nhà cửa, hạ tầng kỹ thuật đô thị rất hoàn hảo.

Sau kiến trúc tiền sử Ấn Độ, nền kiến trúc cổ điển Ấn Độ thật sự bắt đầu từ vương triều Môrya (320 - 184 Tr. CN), tiếp tục vào các vương triều Sunga và Kanva cho đến thế kỷ thứ I S. CN. Loại hình của kiến trúc Phật giáo thường thấy nhất là lúc bấy giờ bao gồm các Stupa và những công trình kiến trúc đục ngầm trong đá. Stupa là loại lăng mộ xây dưới dạng một hình bán cầu lớn, Stupa nổi tiếng nhất là Stupa ở Sanchi, đường kính 32 mét, cao 12,8 mét được đặt trên một bệ trờn cao 4,3 mét. Lan can đá bao quanh cũng như hõm cửa vào cao 10 mét đều có chạm nổi rất tinh vi.

Những công trình kiến trúc ngầm trong đá (thạch động) chia ra làm hai loại:

- Những kiến trúc ngầm trong đá làm nơi tiến hành những nghi thức tôn giáo gọi là chaitya.

- Những kiến trúc đục ngầm trong đá làm tu viện gọi là vihara.

Với kiến trúc đá của Ấn Độ ta không thể không nhắc đến các đền đài ở Ajanta hay ở Ellora (với công trình Kailasa vĩ đại). Ngoài những loại công trình chủ yếu trên, kiến trúc cổ điển Ấn Độ còn có nhiều cột ghi công để ghi công tích của người hoặc kỷ niệm những sự kiện.

Thời kỳ chuyển tiếp từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ V là thời kỳ kết hợp giữa nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, Syrie, Iran vào Ấn Độ.

Tiếp theo sau là thời kỳ phong cách Gúpta (kiến trúc Cổ điển thịnh kỳ), thời kỳ phong cách hậu Gúpta và thời kỳ Pala, Sena.

Kiến trúc Ấn Độ trung thế kỷ là kiến trúc tôn giáo, chủ yếu là kiến trúc Bàlamon và kiến trúc Hồi giáo. Đất nước Ấn Độ là đất nước của những đền đài thần diệu.

Ở Bắc Ấn Độ, đền đài Bàlamon ra đời sớm hơn (khoảng thế kỷ thứ X); trong khi đó ở miền Nam, việc xây dựng chậm hơn nhưng kéo dài (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII). Ở miền Trung Ấn Độ, kiến trúc Bàlamon mang tính chất kết hợp giữa hai kiểu kiến trúc miền Bắc và miền Nam.

Điểm đáng chú ý của giải pháp mặt bằng hình khối kiến trúc tôn giáo Bàlamon là cấu trúc mái, với hai loại khác nhau: loại mái đền có hình dáng những đường cong mềm vươn lên, trên đặt một cái mũ hình lãng bẹt (thường thấy ở miền Bắc) và mái đền hình Kim tự tháp đỉnh bằng (thường thấy ở miền Nam). So với ở miền Bắc, về quy mô, kiến trúc Đạo Bàlamon ở miền Nam lớn hơn và tính quần thể mạnh hơn, có đền đài ở miền Nam tập trung đến hàng ngàn tăng lữ.

Những đền đài Bàlamon miền Bắc Ấn Độ, tiêu biểu nhất là Đền Lingaraja (thế kỷ X) ở Bhuvaneswar (miền Đông Bắc) và Đền lớn Kandariva Mahađêô (thế kỷ X) ở Khajuraho (miền Trung Bắc Ấn Độ).

Những đền đài tôn giáo Bàlamon nổi tiếng nhất ở miền Nam Ấn Độ là Đền Truvannamalai ở Taaiore (miền Tây Nam Ấn Độ), Đền Tridambarama (thế kỷ XI XVIII) cũng ở Tanjore và đến lớn ở Madura (gần cực Nam Ấn Độ), đến mãi thế kỷ XVIII mới hoàn thành việc xây dựng.

Từ thế kỷ XII, cùng với việc Hồi giáo xâm nhập Ấn Độ và việc xây dựng Vương quốc Hồi giáo, văn hóa Đạo Hồi trở thành yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội Ấn Độ.

Kiến trúc Hồi giáo đã để lại nhiều thành tựu rực rõ như đến Thanh trấn Kutub (năm 1193) hiện nay vẫn còn lại di tích của nó là tháp Cutab Minar (1199 - 1230) ở Delhi (cao 72,6 mét, đường kính đáy rộng 14 mét), 5 tầng với cầu thang 376 bậc; đền Thanh trấn Giai Masgit (năm 1644 - 1658), lăng mộ Humayun (năm 1565) ở Delhi và lăng Taj Mahall (năm 1631 -1641 ) “viên ngọc châu'' Ấn Độ ở Agra.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/176-02-633387512023750000/Luoc-trinh-phat-trien-Kien-truc-the-gioi/K...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận