NAPOLÉON BONAPARTE (1769 -1821)
Napoléon BoNaparte - tức Napoléon Đệ nhất, nhà chính trị, nhà quân sự giai cấp tư sản nổi tiếng trong lịch sử nước Pháp và Châu Âu Thế kỷ XVIII, Hoàng đế Đệ nhất nước Pháp và là Hoàng đế 100 ngày, người đã đặt ra ''Bộ luật Napoléon”, về đối ngoại liên tục phát động chiến tranh, sau khi bị thua trong chiến dịch Waterloo bị đi đầy và chết ở Đảo Sainte Hélene (Nam Đại Tây Dương).
Napoléon sinh ngày 15 tháng Tám năm 1769 tại thành phố Ajaccio, Đảo Corse (một quận nước Pháp). Cha là Charles Bonaparte, một luật sư nổi tiếng được triều đình cử làm thẩm phán, ông đại diện cho quý tộc Ajaccio tham gia hoạt động chính trị, sau trở thành nghị sĩ quốc hội Pháp. Mẹ là Maria Letijia, một phụ nữ khuê các ở Đảo Corse. Năm lên 10 (1779) Napoléon đã đi học trường quân sự ở thành phố Brienne (Pháp), năm 15 tuổi (1784) đi học đào tạo tại trường quân sự Hoàng gia ở Paris, chuyên nghiệp pháo binh.
Napoléon thông minh, học giỏi, ông đọc rất nhiều truyện ký về các tướng soái, các sách quân sự, chính trị, trau dồi kiến thức. Sau cuộc đại cách mạng Pháp bùng nổ, ông có thái độ ủng hộ cách mạng, đặc biệt là năm 1793 ông chỉ huy xuất sắc trận vây hãm Toulon, khi đảm nhiệm chức chỉ huy phó, nên được phong đặc cách quân hàm chuẩn tướng, không bao lâu ông được giao nhiệm vụ chỉ huy quân đoàn Italia. Tháng Mười năm 1795, ông có công dẹp tan bạo loạn bằng sử dụng pháo binh, do đó được tấn phong hàm thiếu tướng. Sau đó, ông lần lượt làm tư lệnh quân đoàn Italia, tư lệnh quân đoàn phương Đông. Ông tỏ rõ tài năng quân sự kiệt xuất trong cuộc chiến viễn chinh Italia, tiến quân vào Vienne, chinh chiến ở Ai Cập Sirie. Napoléon được giới quân sự các nước Châu Âu trọng thị.
Tháng 11 năm 1795, Napoléon làm đảo chính, thành lập chính phủ cầm quyền lâm thời và ông là người đứng đầu. Ông bắt đầu cải tiến biên chế quân đội, đặt sư đoàn và quân đoàn thành các đơn vị biên chế cố định, tuyển chọn tướng soái trong đám sĩ quan giỏi và dũng cảm xuất thân từ các gia đình nghèo khổ, đề bạt các binh sĩ dũng cảm làm sĩ quan. Mỗi lần tác chiến ông làm gương đi đầu như một binh sĩ, lăn lộn đồng cam cộng khổ với chiến sĩ nên được các binh sĩ yêu mến. Trong chỉ huy tác chiến, ông thạo thực hành cơ động vu hồi, ở vào thời gian và địa điểm quyết định, ông giỏi tập trung ưu thế binh lực tiêu diệt địch. Ông sử dụng đội hình chiến đấu tung đội với tán binh, tổ chức hiệp đồng giữa bộ binh với kỵ binh và pháo binh, lấy hội chiến có tính quyết định để đánh bại quân địch. Nhờ có sự nỗ lực không mệt mỏi của Napoléon, quân đội Pháp đã trở thành một Đội quân lớn mạnh nhất Châu Âu thời đó. Ông lần lượt giành các thắng lợi to lớn và quan trọng trong các cuộc chiến tranh ở Ulm (Cộng hoà liên bang Đức), Austerlits, Jena, kiểm soát cả một vùng đất đai rộng lớn từ dãy Núi Pyréneés cho đến Sông Niêmen, từ Bắc Hải đến bờ biển Adriatle. Ông dùng chính sách cậy mạnh bắt nạt yếu trong đốt ngoại, do đó các dân tộc bị áp bức và nhân dân những nước phụ thuộc chống ông kịch liệt. Năm 1813 Napoléon thua trận Leipjig, tháng 6 năm 1815 nghênh chiến với liên quân ở Waterloo bị thua, mất ngai vàng, nộp mình cho nước Anh. Chính phủ Anh quyết định lưu đầy Napoléon ra Đảo Sainte Hélèrle (Nam Đại Tây Dương).
Napoléon vừa là một nhà chính trị tài giỏi, vừa là một nhà quân sự kiệt xuất. Sự nghiệp của Napoléon nổi bật trong lĩnh vực cai trị là ông đã soạn ra “Bộ luật Napoléon'' được công bố năm 1804. Bộ luật này có ảnh hưởng to lớn đến lập pháp của nhiều quốc gia tư bản chủ nghĩa, tuy nó có sửa đổi nhiều lần, nhưng những nguyên tắc cơ bản không thay đổi nên đến nay vẫn còn hiệu quả của nó. Trong lịch sử cận đại Châu Âu, ông là một nguyên soái quân sự với tài năng lỗi lạc, đã đánh bại các cường quốc quân sự Anh, Áo, Nga, làm nên một cuộc cách mạng trên vũ đài chiến tranh, đặt nền móng cho sự hình thành tư tưởng quân sự tư sản của Châu Âu cận đại. Napoléon thực sự được coi là Châu Âu đệ nhất danh tướng.
Napoléon đặt chí hướng suốt đời vào binh nghiệp và đã làm nên những sự tích vẻ vang của mình trong binh nghiệp.
Tài năng quân sự của Napoléon biểu hiện rõ những nét xuất sắc trong các chiến thắng tiêu biểu.
Đánh chiếm thành Toulon
Vua Louis XVI và Hoàng Hậu Maria Antoine bị hành hình vào ngày 21 tháng 3 năm 1793. Dư luận phản đối quyết liệt, các nhà vua các nước Châu Âu phê phán chính phủ cách mạng Pháp, nội bộ nước Pháp cũng có nhiều người lên tiếng chỉ trích hành động quá khích đó. Lúc này, những kẻ chống đối cách mạng Pháp phần lớn tụ tập ở thành phố cảng Toulon, ở cảng Toulon còn có hạm đội Anh và tàu chiến Tây Ban Nha.
Qua nghị sĩ Saliceti, Napoléon nhận trọng trách làm tư lệnh pháo binh đánh Toulon, ông hứa nhất định sẽ chiếm được Toulon. Saliceti làm ngay thủ tục với chính phủ, và Napoléon nhanh chóng được nhận chức tư lệnh pháo binh đánh chiếm Toulon.
Bắt tay vào công tác chuẩn bị, Napoléon lập tức đi kiểm tra tình hình bộ đội và quan sát địa hình. Đi sát chiến sĩ thấy kỷ luật lỏng lẻo cần phải chấn chỉnh, ông hiểu thêm tâm tư các binh sĩ dưới quyền. Quyết tâm tác chiến của Napoléon là trước hết phải đánh chiếm pháo đài Eguiesse, không hạ được Eguiesse thì không thể đánh chiếm được Toulon. Tướng Dugommier chỉ huy trưởng mặt trận thấy rõ tài năng tác chiến của Napoléon, ông chấp thuận chủ trương kiên quyết đánh chiếm pháo đài Eguiesse do Napoléon đề nghị.
Liên tiếp 3 ngày pháo binh Pháp tập trung hoả lực nã vào Eguiesse. Quân Pháp tiến công theo 3 mũi, quân Anh phát hiện, bắn pháo dữ dội vào đội hình tiến công của quân Pháp. Tướng Dugommier và Napoléon khích lệ binh sĩ tiếp tục tấn công. Trong lần đột kích cuối cùng vào 3 giờ sáng, quân Pháp chiếm được một góc pháo đài. Có điểm tựa, Napoléon tiếp tục tổ chức tiến công. Ông đưa ra dự đoán táo bạo: 2, 3 ngày nữa nhất định chúng ta sẽ chiếm được Toulon! Binh sĩ nức lòng.
Kết hợp tấn công với nghi binh, Napoléon bố trí các toán binh sĩ ở một số trận địa thổi kèn hiệu xung phong, quân Anh kinh hoàng rút lui. Khi lá cờ Pháp tung bay trên pháo đài Eguiesse, quân Anh lập tức rút khỏi các pháo đài khác. Cùng lúc đó, 2 chiếc tàu chiến Tây Ban Nha trúng đạn pháo của quân Pháp cũng nổ tung. Napoléon ra lệnh cho pháo binh Pháp ở mũi Kiel liên tiếp bắn vào các hạm đội địch. Cuối cùng hạm đội Anh không chịu đựng nổi đành bỏ toàn bộ Toulon rút chạy ra biển. Toulon mù mịt khói lửa, quân Pháp hát vang bài ca cách mạng, tiến vào nội thành. Quyết tâm tác chiến của Napoléon chính xác, pháo đài Eguiesse quả là căn cứ quan trọng nhất của thành Toulon.
Có nhiều lời khen: ''Phương án tác chiến của thượng úy Napoléon thật phi thường! Napoléon làm được những việc không ai làm nổi, viên sĩ quan ấy y như một Pháp sư thần tình”. Tin chiến thắng hạ được Thành Toulorl nhanh chóng truyền về Paris, các yếu nhân chính phủ cách mạng vô cùng sung sướng. Napoléon lập tức được thăng cấp thiếu tướng.
Nã pháo vào quân phiến loạn
Từ tháng 7 răm 1794 cách mạng đi vào thoái trào, phái Núi chia rẽ nội bộ, phe ôn hoà của phái này bắt giam Robespierre em (người đứng đầu phái Núi, địa vị lớn nhất trong chính phủ cách mạng Paris) rồi xử tử hình. Napoléon bị nghi có quan hệ với Robespierre em nên bị bắt giam. Nhờ viết lá đơn lên nghị viện, Napoléon được thả tự do, nhưng chưa có việc làm.
Vào lúc này chính phủ mới cầm quyền chống phái Núi, nhưng phái Bảo hoàng ở các địa phương vẫn tiếp tục ngoan cường chống cự. Họ liên kết với phát Núi, thực lực khá mạnh. Bộ trưởng Lục quân mới tiếp nhiệm vị bộ trưởng bị cách chức, có ý tưởng chiến lược: muốn cứu vãn nguy cơ cho chính phủ, dự tính phát động cuộc chiến ở Italia để củng cố biên phòng. Rất cần có một chuyên gia am hiểu tình hình Italia. Ông bộ trưởng mới lên này đã trao đổi với Napoléon. Napoléon đưa ra kế hoạch: đưa quân vượt qua dãy Núi Alpes tiến sang tiêu diệt quân Áo đang chiếm lĩnh vùng đất trọng yếu ở Italia. Vị bộ trưởng mừng rỡ, đề nghị Napoléon lập kế hoạch tác chiến. Sau 30 phút Napoléon vẽ xong bản đồ kế hoạch tác chiến trước sự ngạc nhiên đến sững sờ của vị bộ trưởng lục quân.
Nhưng lúc này Paris lại đang rơi vào tình thế nguy ngập bị đe doạ bởi các lực lượng phiến loạn. Kể từ ngày cách mạng bùng nổ đến nay đã được 7 năm (1795) mà tình hình nước Pháp không yên ổn, bạo động liên tiếp khắp nơi. Ngày 5 - 10 -1795 quân phiến loạn đồng loạt nổi dậy ở các quận của Paris, có 3 vạn binh lực, xưng là quốc dân quân. Vận mệnh chính phủ mong manh như ngọn đèn trước gió.
Bara - Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Pháp, nhớ tới người anh hùng trẻ tuổi có công trong chiến dịch Toulon - Napoléon Bonaparte. Bara muốn giao nhiệm vụ trấn áp phản loạn cho Napoléon và đề nghị trả lời ngay, nếu Napoléon đồng ý thì chính phủ lập tức cử làm Tư lệnh quân đội bảo vệ Hội nghị Quốc ước. Đắn đo nếu sơ sẩy sẽ phạm tội ác lớn nhất trong lịch sử, nhưng Napoléon đã nghĩ phải nắm binh quyền thì mới thực hiện được chí hướng của mình. Ông nhận lời. Người ta gọi đây là ''Sự biến ngày 13 tháng Hái Nho”, nó rất quyết định đến cuộc đời Napoléon. Điểm lại lực lượng, lúc ấy có 3000 người bảo vệ Cung điện Tuileries, thêm 2000 nghĩa dũng quân thị dân, tổng cộng chưa đến 5000 người. Trong khi đó, lực lượng quân phiến loạn là 3 vạn người (gấp 6 lần lực lượng bảo vệ). Nếu lật đổ được chính phủ cách mạng, quân phiến loạn phục hồi Vương triều Bourbon thì toàn bộ thành viên chính phủ cách mạng sẽ bị xử tử hình. Tình thế vô cùng nguy cấp.
Để tăng quân số, Napoléon phóng thích toàn bộ phần tử quá khích đang bị giam giữ và đưa họ vào quân đội chính phủ. Sau đó, ông phi ngựa đến Hội nghị Quốc ước ra lệnh cho 800 nghị viên phải cầm súng chiến đấu. Napoléon tìm thuộc hạ và sai họ điều động các khẩu pháo cất giữ ở ngoại ô vào bố trí trên quảng trường phía trước Cung điện Tuilertes. Khi được báo cáo bố trí xong 50 khẩu pháo ở quảng trường trước Cung điện Tuileries, Napoléon mừng thầm: "Tốt lắm, thế là nắm chắc phần thắng rồi!”. Từ lúc nhận nhiệm vụ do Bara giao đến giờ mới hết có 5 tiếng đồng hồ.
Đêm 13 tháng Hái Nho (theo lịch cách mạng), trời vừa sáng, quân phiến loạn reo hò bắt đầu tiến công.
Napoléon hạ lệnh cho pháo bắn. Chưa bao giờ quân chính phủ hành động tàn bạo như thế này. Quân phiến loạn tan tác bỏ chạy. Chỉ với 5000 quân, trong vòng 2 giờ dẹp xong phiến loạn. Napoléon lẳng lặng rời quảng trưởng, tự trách: ''Ôi, nhân dân Pháp hãy tha thứ cho tôi”.
Nhờ chiến công này, Napoléon trở thành Tổng tư lệnh quân đội và được phong quân hàm trung tướng.
Viễn chinh Italia
Trong thời gian này, nhóm Đốc chính 5 người do Bara cầm đầu thực hiện hàng loạt chính sách tích cực đốt phó kẻ địch bên ngoài. Kẻ thù lớn nhất của Pháp là quân Áo ở Italia luôn rình rập đe doạ nước Pháp.
Bara giao cho Napoléon làm tư lệnh quân đội viễn chinh tiến sang Italia. Napoléon đến Tổng hành dinh quân viễn chinh đóng ở Nice, lúc này ông tròn 27 tuổi.
Napoléon làm nhiệm vụ trong điều kiện cực kỳ khó khăn: quân Pháp tại Nice đã đóng 3 năm ở dãy Núi Alpes, nay ốm đau, bệnh tật quá nhiều, rất mệt mỏi; nghe thấy viên tư lệnh mới quá trẻ, binh sĩ không tin tưởng, các tướng lĩnh dưới quyền coi thường; với quân tướng như vậy mà phải đưa họ vượt qua dãy Núi Alpes đầy tuyết phủ thì thật là vô cùng khó khăn. Hai bộ tướng thân tín của Napoléon là Junot và Marmont lại phát bệnh cũ, thêm bệnh mới là viêm bàng quang và viêm gan, quân thì chỉ có 36.000 binh sĩ ốm yếu, 4.000 con ngựa gầy, 24 khẩu sơn pháo, quân phí còn vẻn vẹn 300.000 Francs. Làm sao đủ sức vượt đãy Alpes? Binh sỹ nghe kế hoạch đều phản đối. Napoléon cho làm lễ duyệt binh và động viên binh sĩ. Trước lời kêu gọi thống thiết hy sinh cho đất nước khi đang gặp nhiều tai hoạ, các anh em binh sĩ đã ngẩng đầu lên và tràn đầy hi vọng chiến thắng.
Tuy nhiên, Napoléon không coi chỉ động viên là được ông suy tính kỹ cách thức và lộ trình vượt dãy Núi Alpes. Ông hạ quyết tâm vượt núi nhân lúc tuyết dầy, không bị lở, chưa tan, đối phương sẽ hoàn toàn bị bất ngờ.
Đại quân Pháp đã tràn qua dãy Núi Alpes, trước mắt họ là cánh đồng Lombardi trải rộng mênh mông với dòng sông Pau uốn khúc. Italia đây rồi!
Vừa vượt qua Alpes, Napoléon cho tấn công ngay vào đại quân vương quốc Chardaigne (đây là một đảo nhỏ thuộc Italia). Tưởng là quân Pháp quá nhiều, quân Chardaigne mất tinh thần. Trong 6 ngày, Napoléon tháng liền 6 trận thu 21 lá cờ, 50 khẩu đại pháo của địch, chiếm nhiều căn cứ quan trọng, giành thắng lợi tuyệt đối, Vương quốc Chardaigne thua liên tiếp, rút về cố thủ ở căn cứ Krasik, cử sứ giả sang cầu hoà với Napoléon. Hoà ước được ký kết, tin này được nhanh chóng truyền về Paris. Cung điện Tuileries chúc mừng chiến thắng của trung tướng Napoléon Bonaparte.
Đằng sau quân Chardaigne là quân Áo. Nhiệm vụ tiếp theo là tấn công vào chính diện một kẻ địch hùng mạnh. Tổng tư lệnh quân Áo, tướng Paulus 72 tuổi dày dạn kinh nghiệm, nhưng đã không kịp tiêu diệt ngay quân Napoléon, đành phải dùng phòng tuyến Sông Pau ngăn chặn quân Pháp. Ông ta phái 100.000 quân và 30 khẩu pháo đến cố thủ ở cầu Ada, bên Làng Lodi. Napoléon cho kỵ binh vượt sông ở hạ du sang đánh tại sườn quân Áo, còn bản thân ông trực tiếp cầm cờ dẫn đầu một tiểu đoàn cận vệ vượt qua cầu tiến quân địch. Bốn ngày sau trận Lodi, quân Pháp tiến vào thủ phủ của Italia là Milan, tiếp đó đánh chiếm các vùng khác. Vào Milan, Napoléon lập tức phế bỏ luật lệ cũ, chế định luật Pháp mới, trao quyền tự do bình đẳng cho nhân dân. Đồng thời ông tiếp tục đem quân truy kích quân Áo của tướng Paulus.
Dưới quyền chỉ huy của Napoléon, quân đội Pháp đã trở thành đội quân mạnh nhất Châu Âu. Các thành phố được quân Áo phòng thủ kiên cố nhất cuối cùng cũng bị quân Pháp chiếm lĩnh. Cuộc viễn chinh Italia coi như đã thành công già nửa, quân Napoléon chiếm được toàn bộ miền Bắc Italia. Sau khi đại công tước Charles, tổng tư lệnh quân đội Áo bị thua trận liên tiếp, quân Pháp tiến sát uy hiếp thành Vienne thủ đô Áo. Chính phủ Áo đành phải ra lệnh cho đại công tước Charles cầu hoà với Napoléon. Trong đàm phán, Napoléon khôn khéo, trổ tài ngoại giao, giành được hàng loạt điều kiện có lợi cho nước Pháp. Trên thực tế, Áo dây dưa kéo dài chưa ký. Napoléon suy tính mùa Đông đến mà chưa ký được thì sẽ xảy ra nhiều chuyện. Trong tay Napoléon lúc này có 800.000 quân, nhưng đủ sức chiến đấu chỉ là 500.000, nếu quân Áo tấn công thì gay go. Nhất là khi dãy Núi Alpes đầy tuyết thì quân Pháp bị chặn mất đường về. Nghĩ vậy, ông thúc giục sứ giả Áo mau chóng hoàn tất việc ký kết hoà ước. Phía Áo vẫn lần lữa. Napoléon nổi nóng: ''Sớm biết thế này thì ta thừa thắng tiến thẳng sang nước Áo các người! Các người cứ đợi đó, ta sẽ chinh phục cả Châu Âu cho coi! Chỉ e các người còn lâu mới biết thực lực của ta!”. Nói đoạn ông chộp ngay lọ hoa ném xuống đất vỡ tan tành. Sứ giả Áo về báo cáo, đại công tước Charles lo rằng, mình còn lần lữa thì nhất định Napoléon sẽ hành động bất chấp tất cả. Cuối cùng Hòa ước Campo Phormio Pháp - Áo đã được ký kết.
Ngày 5 tháng 12 năm 1797, Napoléon Bonaparte, Tổng tư lệnh đội quân viễn chinh Pháp đi đánh Italia đã về tới Paris. Tiệc mừng chiến thắng được tổ chức tại Cung điện Luxembourg.
Trong không khí vui mừng chiến thắng, Napoléon nung nấu kế hoạch làm thay đổi bản đồ cả Thế giới, vì lúc này thế lực chống đối cách mạng Pháp thường xúi giục các nước Châu Âu bao vây cô lập chính phủ cách mạng. Kẻ thù lớn nhất của cách mạng Pháp là Áo và Anh. Nước Áo đã bị đánh bại ở Italia. Còn nước Anh? Một tư tưởng chiến lược loé lên, Napoléon muốn kiểm soát Ai Cập để cắt đứt thông thương của Anh, làm cho Anh gặp tổn thất nặng nề.
Napoléon trình kế hoạch đánh Ai Cập lên bộ trưởng bộ ngoại giao. Những người đứng đầu chính phủ suy tính, đây là dịp đẩy Napoléon đi xa mà sẽ không có ngày về, thiên hạ sẽ thái bình. Kế hoạch của Napoléon được duyệt.
Chiến đấu trên sa mạc
Napoléon lãnh nhiệm vụ chinh phục Ai Cập.
Đêm khuya ngày 19 tháng 5 năm 1798, đại hạm đội gần 48 chiến hạm và 380 tầu vận tải xuất phát từ cảng Toulon. Cuộc hành quân trên biển này phải tránh hạm đội Anh do đô đốc Mantes chỉ huy. Hạm đội Pháp đi về hướng đảo Nelson, hạm đội Anh vồ trượt do đến sớm quá. Hạm đội Pháp tiến về cảng Alexandrie, hạm đội Anh lại vồ hụt lần thứ hai do đến sớm hai ngày.
Ngày 2 tháng 7, toàn bộ quân Pháp đổ bộ lên đất Ai Cập, chiếm xong Alexandrie liền tiến ngay về Thủ đô Cairo. Vượt sa mạc vô cùng khó khăn lại còn bị các kỵ sĩ dân tộc Kovte tấn công. Nhưng quân Pháp vẫn vượt qua.
Đã đến sát Kim tự tháp, Napoléon cho bố trí trận địa pháo dựa lưng vào Kim tự tháp để bắn các chiến binh Mametuck đến tấn công. Cuối cùng quân Mameluck phải rút chạy. Napoleon ra tuyên cáo bảo vệ nhân dân, giữ nghiêm kỷ luật quân đội, binh sĩ Pháp nào sát hại nhân dân sẽ bị tử hình.
Nhưng tin dữ đến, khi lục quân đổ bộ được lên đất đất Ai Cập thì hạm đội của Pháp đã bị hạm đội Anh tiêu diệt toàn bộ. Như vậy đội quân Napoléon bị cắt đứt liên lạc với Tổ quốc.
Napoléon nghĩ kế tự lực, không chờ tiếp viện từ trong nước, ông hạ quyết tâm chinh phục Sirie.
Ngày 10-2-1799 Napoléon chỉ huy 14.000 binh sĩ sang chinh phục Sirie. Quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Sirie đánh tiêu diệt quân Pháp, nhưng Napoléon đã nhanh hơn, tấn công trước. Ngày 22 tháng 2, quân Pháp đánh lui quân Thổ, chiếm căn cứ quan trọng En Arich. Ngày 24 quân Pháp tiến vào Palestine chiếm Thành Gaja, ngày 4 tháng 3 bao vây Japha và chiếm được sau một tuần. Quân Pháp đã tới được đồng bằng trù phú Sirie. Ngay sau đó quân Pháp bị dịch bệnh nhiều, không đủ sức đánh pháo đài Sainte Jean d'Arc. Quân Pháp bao vây pháo đài hai tháng rồi phải rút trở về Ai Cập. 300.000 quân Thổ truy kích, nhưng bị Napoléon đại phá. Quân Pháp nhanh chóng rút an toàn. Không đánh được Sainte Jean d'Arc là một thất bại. Quân Pháp kiệt sức quay trở về Cairo.
Giữa lúc này đại quân Thổ tấn công thành phố Alexandrie. Nghe tin đó, Napoléon dẫn quân đánh chặn, dàn trận ở gần Aboukir. Quan Pháp chiến đấu vô cùng anh dũng, 17.000 quân Thổ đại bại, chết đuối tới hơn 6.000 tên khi qua Sông Nil.
Đang trong tình hình như vậy, Napoléon lo lắng cho trong nước. Chính phủ Pháp khổ sở vì nội loạn, bên ngoài thì để mất Italia. Napoléon quyết tâm phá vây để trở về cứu nước Pháp.
Giao toàn quyền chỉ huy cho phó tướng Clebair, đêm 23 tháng 8 năm 1799, Napoléon cùng một số binh sĩ đi trên 2 chiến hạm, tắt đèn rời khỏi cảng Alexandrie. Do đánh lừa được hạm đội Anh, chiến hạm của Napoléon không bị đụng độ, cuối cùng đã tiến thẳng về cảng Toulon.
Hoàng đế nước Pháp - Napoléon
Napoléon đã trở về đất nước, dân chúng hy vọng ông có khả năng chỉnh đốn tình hình. Cách mạng đã được 10 năm mà đất nước vẫn chưa ổn định, các chính khách tranh giành quyền lực, không lo gì cho đời sống thần dân. Đất nước trong cơn khủng hoảng. Có nhiều người chống Napoléon, muốn sát hại ông.
Nhưng vì chính phủ quá bất lực, một số người lại cho rằng hiện nay cách tốt nhất là để Napoléon lên cầm quyền thay cho cái chính phủ bất lực này. Có nhiều người ủng hộ ý này, nhà ngoại giao Tallerand, Bộ trưởng Bộ Công an Phushet, viên đốc chính Roge Ducos lần lượt đứng về phe ủng hộ Napoléon. Trước đó Lucien, em trai Napoléon, 24 tuổi đang là nghị viên tiến bộ của hạ viện và anh cả Napoléon là Joseph nghị viên khu Paris cũng đã đưa ra ý kiến để Napoléon lên nắm quyền.
Sau khi bàn kín với Tallerand, ngày 18 Tháng sương mù (tức là ngay ngày hôm sau), Napoléon triệu tập các tướng lĩnh thuộc hạ để thực hiện kế hoạch đã định. Ông đến Viện nguyên lão yêu cầu họ dọn ra vùng ngoại ô Paris, và phải giao quyền chỉ huy quân đội Pháp trong và ngoài nước cho ông. Các nghị viên hô hoán ''Bắt nó lại” ''Đem ra chém đầu”. Lức này Napoléon đã đến, qua một phút im lặng, lại nhao nhao: Đánh chất hắn đi! Napoléon bị đánh đập túi bụi nhưng không chống lại, tới lúc bị gục. Nhưng đoàn kỵ binh đã xông vào hội trường kéo được Napoléon ra.
Napoléon mơ màng nghĩ: ''Phải dùng vũ lực đối phó với bạo lực. Bây giờ thì bất chấp Pháp luật”. Ông đứng dậy lau vết máu trên mặt, lớn tiếng hạ lệnh cho các binh sĩ tấn công. Các binh sĩ cắm lưỡi lê đầu súng xông vào hội trường. Các nghị viên bị dồn vào một góc. Các binh sĩ mắng nhiếc họ thậm tệ.
It lâu sau, nước Pháp bầu ba người là Napoléon, Cyaiet và Ducos làm nhiếp chính, gọi là 3 vị tổng tài Napoleon là tổng tài thứ nhất. Lúc này, Napoléon 30 tuổi, ông đã bước lên vũ đài chính trị.
Từ khi Napoléon lên cầm quyền, tình hình rối loạn, tranh giành quyền lực chính trị ở Pháp lắng dịu hẳn đến mức khó tin. Thời kỳ này ông thực hiện rất nhiều cải cách, trong đó có việc ban hành bản Dân luật (Bộ luật Napoléon, sau còn gọi là Hiến pháp của Napoléon). Đương thời bộ luật này hết sức tiến bộ, đến sau này các nước khác vẫn tham khảo để chế định pháp luật. Nhờ cải cách, chính thể quốc gia đi vào quỹ đạo.
Biên giới nước Pháp, chiến tranh vẫn tiếp diễn. Nếu không làm chấm dứt được chiến tranh thì không thể có hoà bình thực sự. Chính phủ Napoléon phải đánh thắng quân Áo vài trận để chứng tỏ sức mạnh và thu phục nhâm tâm.
Phải đánh bại quân Áo bằng đòn bất ngờ, lại phải vượt qua dãy Núi Ajpes, thọc sâu vào vùng đồng bằng Lombardi. Ngày 8 tháng 5 năm 1800 bắt đầu kế hoạch viễn chinh. Napoléon cử tướng Lannes dẫn 15 vạn quân đi tiên phong, ông dẫn 4 vạn quân hậu bị tất cả chia thành 4 mũi tiến quân.
Quân Áo kinh hoàng khi thấy quân Pháp vượt được dãy Núi Alpes tràn xuống đồng bằng Lombardi. Quân Pháp dễ dàng chiếm thành phố Milan, Monbaira rồi tiến thẳng đến cánh đồng gần làng Marengo. Sáng sớm ngày 14 tháng 7 đã diễn ra trận Marengo lừng danh trong lịch sử với một cảnh tượng binh lực quân Áo gấp rưỡi và số pháo nhiều gấp 6 lần của quăn Pháp, Với ưu thế đó, quân Áo đẩy lùi dần quân Pháp. Đúng lúc đội ngũ toán loạn, đội chiến sỹ cận vệ, con cưng của Napoléon xông trận, nhưng dù cho họ chiến đấu ngoan cường cũng không thay đổi được thế trận. Nhưng bỗng 6.000 kỵ binh của tướng De Saix lao đến cứu viện. Quân Pháp thấy viện binh reo hò vui mừng, Napoléon nhảy lên mình ngựa phóng tới De Saix vung tay nói lớn: Tướng de Saix! Hiện mới khoảng 3 giờ chiều là cùng, đủ để chúng ta quyết định thắng bại trước khi Mặt trời lặn đấy. Tướng De Saix đi đầu đội quân mỉm cười: Thưa ngài tư lệnh, được ạ!
Tiến lên, hơi các dũng sỹ! Hãy theo ta tiến lên! -Napoléon hô lớn. Các binh sỹ đang rút chạy thấy vị tư lệnh xông lên dũng mãnh liền quay trở lại bám theo ông phản kích.
Quân Áo yếu thế, bắt đầu rút lui. Tướng De Saix trúng đạn ngã ngựa, tướng Aramal chỉ huy đội kỵ binh thừa thế truy kích quân Áo đang tan tác bỏ chạy.
Thắng lợi đã thuộc về quân Pháp.
Trong đêm đen, Napoléon mò khắp cánh đồng ngổn ngang xác chết vẫn không làm thấy thi thể người anh hùng làm nên chiến thắng. Ông xuống ngựa, nhắm mắt cúi đầu vĩnh biệt tướng De Saix đã hy sinh anh dũng ngay trong trận. Hai hàng nước mắt lăn trên gò má lấm lem của Napoléon.
Tin thắng trận Marengo truyền nhanh về Pháp.
Quân Pháp ca khúc khải hoàn trở về, quảng trường trước cung điện Tuileries đông nghịt dân chúng chào mừng Napoléon, hò vang như sấm động: "Tướng Napoléon đúng là vị chúa cút thế của nước Pháp!''
Đứng trên xe ngựa, thấy cảnh cuồng nhiệt của quần chúng, trong óc Napoléon, loé lên ý nghĩ: “Ta đã làm được những việc mà người ta cho là không thể làm nổi. Từ nay trong bộ từ điển của ta sẽ không bao giờ có chữ ''không thể”.
Dân chúng cần hoà bình. Sau chiến thắng Marengo, Napoléon ký hoà ước với Áo, rồi lần lượt ký riêng rẽ với Phổ, Nga, Napoli, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh.
Đối với Napoléon, nước Anh là kẻ thù không đội trời chung, hiện tại trừ Anh ra, nước Pháp tạm thời không lo các kẻ thù khác uy hiếp.
Sau khi đảm nhiệm chức tổng tài thứ nhất và lập những chiến công to lớn, Napoléon còn thiết lập nhiều thể chế, đặt ra nhiều chính sách rất được lòng dân. Quốc dân hy vọng Napoléon suốt đời giữ chức vụ này. Với nhân dân Pháp, Napoléon lúc này chẳng khác một đấng quốc vương.
Vẫn còn lực lượng muốn phục hồi vương triều Bourbon. Napoléon viết thư trả lời cho em trai Vua Louis XVI rằng, dòng họ Bourbon ở nước ngoài hãy vì nhân dân Pháp mà ủng hộ chính phủ mới do dân lập ra.
Napoléon nảy ra ý nghĩ, vì tương lai và hoà bình của nước Pháp, cách hay nhất là ta lên làm quốc vương. Ý nghĩ đó càng thôi thúc khi có nhiều kẻ thù đang tâm mọi cách sát hại ông. Cả nước có đến hơn 60 kẻ quyết tâm mưu sát Napoléon, ngay cả những người đã từng là trợ thủ đắc lực của Napoléon, thì lúc này cũng trở nên không đáng tin cậy.
Napoléon bảo bộ trưởng Phushet tìm bằng được những kẻ chủ mưu mà nghiêm trị. Ít lâu sau, Napoléon ra lệnh bắt giữ các tàn dư của phái Núi, đóng cửa 61 tờ báo chống đối Napóléon. Dư luận cho rằng, ông cũng thực thi nền chính trị độc tài. Napoléon quả quyết làm quốc vương, quá nửa dân số Pháp ủng hộ ông.
Tháng 5 năm 1804, Viện nguyên lão chính thức cử đại biểu đến thỉnh cầu Napoléon nhận chức quốc vương nước Pháp. Một buổi sáng tháng Năm, Napoléon chính thức lên ngôi Hoàng đế. Từ Viện nguyên lão vang lên tiếng hô: ''Hoàng đế muôn năm!'' Lễ đăng quang được cử hành tại Nhà thờ đức bà Paris. Giáo hoàng La Mã trao vương miện cho Hoàng đế Napoléon.
Đánh thắng trận Austerits
Nghe tin Napoléon lên ngôi Hoàng đế Pháp, các nước lớn Châu Âu tăng cường sức ép với Pháp. Đứng đầu là nước Anh, đã nhiều lần đưa thích khách sang Pháp mưu sát Napoléon. Người Pháp căm phẫn: ''Nước Anh đúng là kẻ thù không đội trời chung với chúng ta!"
Napoleon bàn với các tướng lĩnh cách đối phó nước Anh. Chỉ cần đánh gục Anh là chính phủ các nước Châu Âu sẽ phải cúi đầu làm chư hầu nước Pháp. Tiếc rằng, trở ngại trong tấn công Anh là biển.
Các tướng lĩnh hiến kế đánh Áo và Nga trước, nhưng Napoléon cho rằng kẻ thù số một vẫn là nước Anh. Muốn chinh phục được Anh, nhất định ta phải kiểm soát được eo biển Dover. Nappoléon đề xướng. Lúc này, Pháp nên liên kết với hải quân Tây Ban Nha để chống lại hạm đội Anh. Phải tìm cách dụ được hạm đội Anh ra khỏi eo biển Dover.
Kế hoạch là: Tập trung tất cả thuyền bè trong nước, bất kể là thuyền của ngư dân hay là chiến hạm, lập thành một hạm đội gồm 2.365 chiếc, chuyên chở 16 vạn binh sĩ, 1 vạn ngựa, 650 khẩu pháo. Vượt được eo biển Dover, lục quân Anh sẽ chẳng phải là đối thủ của quân Pháp.
Napoléon hạ quyết tâm thực hiện kế hoạch này, nhất định phải đánh gục nước Anh.
Đang khi làm công tác chuẩn bị, được tin quân Áo đã động binh ở biên giới. Kế hoạch dụ hạm đội Anh của đô đốc Pháp Villeneuve chưa kịp thực hiện, Napoléon dành cho dỡ bỏ các doanh trại Bologne khổng lồ, rồi thân chinh dẫn đại quân đón đánh quân Áo. Hành động thần tốc, chỉ trong một đêm 18 vạn đại quân Pháp đã không còn một bóng người ở Bologne. Ít lâu sau họ đã có mặt bên bờ Sông Danube đối mặt với quân Áo đang ở giữa khu vực Sông Rhin và Sông Danube. Quân áo đã bị quân Pháp bao vây nhiều tầng lớp. Không đầy 3 tuần lễ, 8 vạn quân Áo bị dồn vào thung lũng Ulm và hạ vũ khí đầu hàng. Thắng quân Áo, quân Pháp dàn trận chờ quân Nga.
Ngày 3 tháng 12, chủ lực liên quân Áo - Nga từ Warszawa ào ạt tiến về Vienne. Quân Pháp dưới quyền chỉ huy của nguyên soái Soulta và Bernadotte đã bất ngờ xuất kích đánh vào đội hình liên quân Áo - Nga khi họ tới cao nguyên Pratden, phía Tây Làng Austerlists. Cùng lúc, đội kỵ binh của tướng Murat xuất trận, liên tục truy kích liên quân Áo Nga đến Austerlists, ngoại vi thành Vienne. Quân Pháp ưu thế giành chiến thắng.
Sau trận Austerlists, Hoàng đế Franois nước Áo đề nghị hội kiến Napoléon ở Austerlits và 2 bên đã gặp nhau ôn hoà.
Tuy thắng trận này, nhưng tài chính nước Pháp kiệt quệ.
Nước Phổ lâu nay không có thái độ rõ ràng. Bây giờ đột nhiên tuyên chiến với Pháp (1806). Nhưng quân Pháp đã đánh thắng quân Phổ và tiến quân vào Berlin - Thủ đô của Phổ.
Tình hình Pháp rất khó khăn, nhân dân khổ sở, quân Napoléon lại thắng trận liên tục, được coi là đội quân vô địch. Napoleon có ý định thống nhất toàn bộ Châu Âu để lập nên một đế quốc khổng lồ. Hiện Napoléon đang là Hoàng đế nước Pháp kiêm nhiệm chức quốc vương Italia. Tây Ban Nha sớm thuần phục Napoléòn, Hà Lan chấp nhận em trai của Napoléon là Louis làm quốc vương, còn Áo, Nga đều đã thua trận. Chỉ còn vướng có nước Anh. Quân Pháp vô địch trên đất liền, nhưng trên biển thì không như vậy.
Lệnh phong toả lục địa
Đối với nước Anh, quân Pháp còn yếu thế trên mặt biển. Trận hải chiến lớn và ác liệt ở vùng biển Triphaka, hạm đội Pháp liên kết với hạm đôi Tây Ban Nha đã bị hạm đội Anh do đô đốc Nelson chỉ huy tiêu diệt toàn bộ đã chứng tỏ thực tế này. Hải chiến ngày 21 tháng 12 là tai hoạ lớn của nước Pháp. Liên quân Áo - Nga bị thất bại ở Austerlits đã phá vỡ kế hoạch của Anh liên kết với Nga, Thuỵ Điển và Áo để chống Pháp.
Napoléon chưa vừa lòng với thắng lợi trên lục địa. Ngay sau khi quân Pháp tiến vào Berlin, ông công bố lịch phong toả lục địa. Cấm các nước thông thương với nước Anh, nước nào vi phạm sẽ bị nghiêm trị. Mục đích của Napoléon là cách ly Châu Âu với Anh, đẩy Anh vào thế bị cô lập hoàn toàn. Nhưng kết quả là ngược lại, các nước Châu Âu gặp khó khăn. Chính do lệnh phong toả này mà uy tín Napoléon bị giảm dần.
Bất chấp tất cả, ông đem quân đi đánh Balan. Được tin này, quân Nga đến ứng chiến.
Phải chiến đấu với quân Nga trên đất tuyết rét ghê người của họ, quân Pháp có cảm giác giống như khi bị rơi vào trình trạng ở Ai Cập. Giao chiến ngày 2 – 8, ở Prenisit AI quân Pháp bị quân.
Cuối cùng Napoléon cũng thiết lập được một đại đế chế xuyên Châu Âu: ĐÂY là thôi kỳ. Napoléon cực thịnh. Napoléon tin rằng Châu Âu có thể an hưởng hoà bình.
Nhưng dân chúng Châu Âu cho rằng Napoléon đã biến thành kẻ chuyên chế, họ không tin vào ông nữa. Khắp nơi đều nghe thấy những khi chỉ trích Napoléon. Năm 1808, Tây Ban Nha rối lên, ông phế truất quốc vương và cử anh mình là Joseph sang làm Vua Tây Ban Nha. Dân chúng Tây Ban Nha căm ghét quân chiếm đóng Pháp, họ liên tục giết hại lính Pháp, chiến sự ở Tây Ban Nha hầu như không chấm dứt. Các nước châu Âu bị Pháp cai trị cũng rục rịch nổi lên chống lại. Napoléon lại còn tịch thu Thánh địa của Tòa thánh La Mã chia cho Italia. Vì ông thấy quyền hành giáo hoàng quá lớn, cái gì cũng phải xin ý kiến. Vì việc này, dân chúng càng ghét ông. Ít lâu sau, Anh đưa quân sang giúp Tây Ban Nha, nước Phổ nổi dậy, nước Áo điều đại quân đến vùng biên giới. Napoléon phải đối phó 4 bề, lại muốn tiếp tục cuộc chiến với Tây Ban Nha, rất bối rối.
Năm 1809, quân Napoléon thất lợi trong 2 trận Étmun và Ratisbon khi đánh với quân Áo, đến trận sau mới giành thắng lợi và tiến tới ngoại ô thành Vienne. Hoàng đế Áo ở lại cùng công chúa, đầu hàng quân Pháp. Công chúa Marie Louise là dòng dõi tộc Habsboug có tiếng tăm. Để kết thân với quý tộc, tạo ảnh hưởng rộng lớn của mình và che xuất thân là người Corse, Napoléon đã lấy Marie Louise. Thật ra đây là Napoléon cũng vì nghiệp lớn của mình: Hầu thư khắp nơi đều chống Napoléon. Đối với Áo Napoléon suy nghĩ: chẳng riêng quân đội và Hoàng đế Áo là kẻ thù của ta, mà có lẽ là toàn thể nhân dân Áo! Nghĩ vậy, ông muốn mau chóng hoàn tất ký Hòa ước với Áo.
Nhiều dấu hiệu cho thấy thời kỳ cực thịnh của Napoléon đã đến lúc sắp tàn lụi.
Luật phong tỏa lục địa đã phản tác dụng. Các nước không thông thương được với Anh đã thiếu cà phê, trà, đường, hàng dệt, đồ dùng bằng sắt, thuốc nhộm cùng với nhiều mặt hàng thiết yếu khác. Do thiếu thốn, nhân dân ngày càng căm ghét Napoléon.
Dư luận cho rằng, không lật đổ Napoléon thì suốt đời dân chúng không hy vọng được sống một ngày cho ra hồn. Lúc này Phổ và Nga tích cực chuẩn bị tấn công Pháp. Napoléon yêu cầu Nga hợp tác để chống Anh, ông đã được Alexandre Đệ nhất trả lời rằng, nước Nga chỉ mong Pháp bại trận.
Cuộc viễn chinh sang Nga
Napoléon nhận rõ ý định Nga gây chiến, chỉ còn cách là chuẩn bị chiến tranh với Nga. Xuân 1811, ông hạ quyết tâm, tập trung binh lực từ các nước Châu Au, tổ chức thành một đạo quân khổng lồ 670.000 người, trong đó 200.000 người Pháp, còn lại là Bỉ, Áo, Hà Lan, Italia, Phổ, Thuỵ Sỹ, Tây Ban Nha, Ba Lan, Bồ Đào Nha. Để giữ yên phía sau, trước khi viễn chinh, Napoléon ký Hiệp ước đồng minh công thủ với Phổ và Áo, lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ, giao hảo Thụy Điển. Nhưng quốc vương Thụy Điển là Bernadotte, em rể Napoléon lại đầu hàng Nga, Thổ đột nhiên ký hoà ước với Nga.
Dụng ý của Napoléon là dùng thanh danh đội quân khổng lồ này đe doạ, ép Nga phải cầu hoà. Nhưng Tallerand đã tiết lộ toàn bộ ý đồ này cho Nga. Kế hoạch không thành. Napoléon thống lĩnh quân đội đi chinh phục trong sự lo ngại và thấy rất nhiều người Pháp phản đối cho ông là kẻ hiếu chiến, tại tiếp tục chiến tranh.
Khi lập kế hoạch tấn công Nga, Napoléon cho rằng nước Nga nhất định có nhiều lương thực, ngựa, vào đến Nga sẽ lấy được các thứ đó. Cho nên trong lần tiến quân này chỉ cần chở theo một ít lương thực.
60 vạn đại quân Pháp di chuyển lên phía Bắc tiến vào đất nước Nga. Họ đến bờ Sông Niêmen vẫn không thấy quân Nga đâu cả. Napoléon ra lệnh chia làm 3 mũi tiến quân vượt sông. Cánh đồng Nga mênh mông trải ra trước mặt, vùng đất này mới rộng làm sao. Khí hậu thay đổi, bệnh dịch lan rộng cướp đi nhiều sinh mạng binh sĩ, hàng vạn ngựa bị chết. Vẫn không thấy quân Nga đâu cả. Quân Pháp đành tiếp tục dấn bước. Ngày 23 tháng 7, đại quân chiếm được thành phố Vitepxcơ, ngày 17-8 chiếm thành phố Smotenk. Ở đó chỉ xảy ra vài trận đánh nhỏ. Quân Nga đã thực hiện tiêu thổ kháng chiến trên đường rút quân, họ không để lại 1 ngọn rau, 1 nhúm bột mì. Lính Pháp chỉ được ăn có một món thịt, bị bệnh hoại huyết, có ngày chết 900 người. Napoléon bồn chồn, nôn nóng có lúc gần như phát điên.
Ngày 5 tháng 9, quân Pháp phát hiện nhiều quân Nga đang xây dựng công sự ở gần Làng Bôrôđinô, gần con đường lớn đi về hướng Moskva. Đêm trước của trận quyết chiến Napoléon cảm lạnh sốt cao, ông kiệt sức không chỉ huy nổi, đến cả khi cấp dưới bảo cáo cũng chẳng nghe thấy gì. Trong khi đó, trận đánh diễn ra ác liệt. Lần đầu quân Pháp giao chiến với quân Cô Dắc, Tác Ta thiện chiến, vất vả lắm mới đẩy lùi được quân địch.
Thủ đô Moskva đã thấp thoáng trước mặt quân Pháp. Vào Moskva không một bóng người, như một thành phố chết. Napoléon kêu đến lạc giọng: ''Ôi! Ta bị trúng kế rồi!”. Đêm đó, Napoléon vào điện Khemli, bỗng cả thành phố bốc cháy rực lửa. Đó là các tù binh đốt Kinh thành theo lệnh của quân Nga.
Tháng 9 trôi qua, tháng 10 sắp đến, mùa Đông rét ác liệt sẽ bao trùm lên Moskva hoang tàn. Napoléon lo trong nước có chính biến, quyết định rút quân về trước. Lúc này chẳng cần giữ thể diện, phải rút mau.
Ngày 9 tháng 10 quân Pháp rút khỏi Matxcơva về Paris. Đói rét trên đường rút lại bị quân Cô Dắc truy kích liên tục, lúc này đại quân tổn thất đến quá nửa. Lúc rời khỏi Moskva, quân Pháp còn 10 vạn người, đến Smolenk chỉ còn 5 vạn, số này cũng chẳng còn khí thế chiến đấu.
Trong tình thế khó khăn như thế mà bộ đội của tướng Ney vẫn đánh lui được 7 vạn kỵ binh Cô Dắc ở Smolenk.
Trên đường rút, quân Pháp buộc phải liều chết vượt Sông Berezina (Bê la rút), sau cuộc vượt sông, điểm lại bị mất hơn 2 vạn người.
Qua sông, Napêléon giao toàn quyền chỉ huy cho tướng Murat và Ney, ông lấy 2 lính cận vệ dùng xe trượt tuyết ngày đêm về Paris.
Về đến Paris, Napoléon vẫn xử lý chính sự, tiếp kiến các đại sứ nước ngoài, tham dự vũ hội, tựa hồ như cuộc sống không khác trước. Thâm tâm sớm chuẩn bị chấp nhận vận rủi sắp đến.
Ít lâu sau, Phổ đột ngột tuyên chiến với Pháp, tiếp đó đến Áo. Hầu như cả Châu Âu chĩa súng về Napoléon: Bắc có Nga, Phổ, Thuỵ Điển; Nam có Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha không chịu khuất phục Pháp; Tây có Anh; Đông có Áo.
Napoléon lập tức huy động 18 vạn quân dàn trận trên bờ Sông Spree (Đức), ngày 5 tháng 2 đánh bại quân Nga, Áo tại Lutzen, tiếp đó thắng trận Bautzen (thuộc Đức ở phía Tây Dresden).
Trận ''liên quân quốc gia” xảy ra vào tháng 7, liên quân có tới 50 vạn người, còn Napoléon chỉ có 14 vạn, thế mà quân Pháp vẫn đánh thắng. Nhưng Napoléon không còn sức chiến đấu, ông lên cơn đau dạ dày.
''Trận liên quân quốc gia'' diễn ra ngày 16 tháng 10 ở Leipzig, kéo dài 3 ngày liền. Trong trận quyết chiến này có 1 cánh quân bộ và 1 đơn vị kỵ binh người Xắcxơ đã quay súng bắn lại quân Pháp. Quân Pháp bị vô hiệu hoá, đành rút về phía Sông Rhin.
Napoléon quyết thử sức một lần cuối, lúc này liên quân có 30 vạn người, quân Pháp chỉ còn ngót 3 vạn. Ngày 10 tháng 2 năm 1814, Napoléon đánh thắng quân Nga ở Champeaubaire. Ngày 11 tháng 2 thắng quân Nga - Phổ ở Monmiray. Ngày 12 tháng 2 ở Telnitz Sokolnitz và ngày 13 ở Veaucent, ngày 18 ở Montreau, Napoléon đều thắng ròn rã. Ngày 7 tháng 3 tại Craon, ngày 11 tại Laon, ngày 21 tại Ac-xit Xuya Ôbê, quân Pháp liên tiếp đánh bại đối phương.
Ngày 25 tháng 3, hai cánh quân của tướng Moortic và tướng Marmont, chỗ dựa cuối cùng của Napoléon bị bại trận. Napoléon một mình đi xe ngựa về Paris. Ông bồn chồn lo lắng: có lẽ là họ đã ký được Hiệp định đầu hàng rồi chăng? Khi đến tả ngạn Sông Seine, nghe thấy lính Phổ hát quân ca, ông cho xe chạy sang hướng khác. Thế là hết!
Vào lúc này, các tướng của Napoléon đều không còn bụng dạ nào chiến đấu nữa, không muốn để quốc dân lâm vào cảnh máu lửa, chết chóc. Quân đoàn Marmont là đội cận vệ bảo vệ Napoléon đã đầu hàng. Napoléon chỉ còn một số ít quân cấm vệ ở bên cạnh.
Ngày 12 tháng 4 năm 1814, Napoléon ký tuyên bố thoái vị. Ngày 20 tháng 4 lên đường đi Đảo Elbe, được phép đem theo 400 lính cận vệ.
Napoléon muốn sống đến già ở Đảo Elbe. Ở Paris, Tallerand và Phuset ngầm bàn với nhau đưa Napoléon tới đảo Santa Lucia ở Đại Tây Dương để cho chóng chết. Đọc báo, biết tin này, Napoléon nổi giận: Không đến Santa Lucia nào cả, lúc này các đồng minh đang bất đồng ý kiến với nhau, chính là cơ hội trời cho ta, cần hành động. Ông cho rằng nước Pháp lại cần đến ông, phải vùng dậy. Ngày 25 tháng 2 năm 1815, Napoléon cùng 1 số thuộc hạ đi trên 2 chiếc thuyền buồm cắm cờ nước Anh bí mật dời đảo Elbe.
Tin Napoléon dời đảo Elbe trở về Pháp đã lan nhanh về đến Paris. Trong tay Napoléon bấy giờ có 400 thợ săn Đảo Corse, 100 kỵ binh Ba Lan, 600 lính cấm vệ và thợ săn, tổng cộng 1.100 người. Ngày 1 tháng 3, họ vào vịnh Giu Ăng, gần mũi Ăng típ. Đến Thành phố Gronov thì từ đó đội quân của Napoléon không cần giữ bí mật nữa, tiến thẳng về Paris. Một tiểu đoàn quân nhà vua gặp Napoléon ở Lamur, họ đã không bắn Napoléon. Có lẽ dưới con mắt của họ, Napoléon mới chính là người cứu họ. Tướng Ney trước đây phản bội nay lại quay về.
Trở lại ngôi Hoàng đế, đánh trận Waterloo
Thấy đội quân Napoléon thanh thế mạnh mẽ Vua Louis XVIII bỏ Cung điện Tuileries chạy về biên giới nước Bỉ. Các nước Anh, Áo, Nga, Phổ tổ chức liên quân hàng trăm vạn người sẵn sàng đối phó với Napoléon.
Trở lại ngôi Hoàng đế, Napoléon tổ chức và huấn huyện quân đội, chỉ trong 3 tháng đã huy động được 13 vạn binh sĩ, phần lớn là tân binh trẻ. Địch đông, muốn đánh bại chúng, phải tiến công vào từng cánh quân vào lúc quân Anh của Winglington và quân Phổ của Bluykhe chưa hội quân.
Tướng Ney được lệnh đánh chặn quân Phổ trên đường cái đi Brukzen, nhưng trước mặt lại là quân Anh 4000 người. Còn đội tiên phong của Napoléon bị chạm trán với quân Phổ.
Sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1815, Napolêon phát động tấn công trước và đánh lui quân Phổ. Winglington dẫn quân Anh đến ứng cứu. Ney chưa đưa quân đến kịp. Napoléon giao cho tướng Grusi truy kích quân Phổ, còn mình chỉ huy đánh quân Anh. Quân Anh rút chạy. Trời mưa. Napoléon muốn chớp thời cơ đánh thật nhanh. Các tướng đề nghị không nên đánh giá thấp quân địch.
11 giờ 30 trưa, tạnh mưa, Napoléon cho quân công kích ngay, khi 80 khẩu đại pháo đang nhả đạn đồng loạt, thì từ hướng Tây Bắc quân Phổ lao đến tiếp viện. Tướng Ney chỉ huy đội cấm vệ công kích mãnh liệt, quân Anh lui dần. Quân Phổ đến tiếp viện quân Anh đúng vào lúc quân Pháp đã vô cùng mỏi mệt. Quân Pháp phải chống đỡ hai phía, một góc trận địa bị vỡ. Toàn bộ quân Anh, Phổ, Hà Lan tràn vào giữa đội hình quân Pháp.
Quân Pháp đã thua.
Ngày thứ ba sau trận Waterloo, Napoléon trở về Paris. Napoléon định thuyết phục các nghị viên tổ chức chiến đấu chống cự lại địch vẫn kịp. Tất cả không ai nghe theo Napoléon.
Hôm đó, Napoléon rời Paris đi Manmaison. Còn Phuset thương lượng ký kết hoà ước với Áo, Phổ.
Từ khi dời Đảo Elbe đổ bộ lên Giu-ăng đến lúc trở lại ngai vàng đến giờ, "Vương triều một trăm ngày'' của Napoléon đã chấm dứt.
Napoléon dự định sang Mỹ. Gặp tuần dương hạm của Anh trên biển, các thuỷ thủ tân binh quyết bảo vệ Napoléon. Nhưng ông không muốn họ hy sinh vì mình. Ông hạ lệnh cho tàu chạy về phía tàu Bellerophole của Anh. Ông xin tự nộp mình. Chính phủ Anh quyết định đầy ông đi đảo Sainte Hélène ở Nam Đại Tây Dương.
Cả Châu Âu chăm chú theo dõi động tĩnh trên Đảo Sainte Hélène.
Một năm sau khi đến đảo, Napoléon phát bệnh. Sang năm thứ ba phải nằm liệt giường quá nửa thời gian trong một ngày. Đêm 21 tháng 4 Napoléon muốn đọc cho bá tước Môngtơlông viết một dự án cải tổ quân đội quốc gia Pháp để có thể sử dụng hợp lý quân đội trong công cuộc bảo vệ đất nước chống ngoại xâm. Napoléon viết chúc thư vào ngày 15 tháng Tư, có câu: "Tôi muốn hài cốt của tôi sẽ được đặt bên bờ Sông Seine, giữa lòng nhân dân Pháp mà tôi siết bao yêu mến”. Những dòng chữ này sau đã được khắc tên tấm đá cẩm thạch đặt trên mộ Napoléon. Người anh hùng, đệ nhất danh tướng Châu Âu - Napoléon mất vào 5 giờ chiều ngày 5 tháng 5 năm 1821. Khi hạ huyệt, một loạt đại bác vang rền: Người Anh dùng nghi lễ quân đội để vĩnh biệt vị Hoàng đế quá cố.
Napoléon có tài trên các mặt trận chính trị, ngoại giao và quân sự. Trong lĩnh vực chiến tranh thời đó, không ai sánh được với Napoléon, và ông đã vĩ đại hơn hẳn so với các lĩnh vực hoạt động khác của ông. Napoléon đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự của nước Pháp trong cận đại. Theo Engels, "… công lao bất diệt của Napoléon chủ yếu là đã tìm ra được cách sử dụng duy nhất đúng đắn cả về chiến thuật và chiến lược - những khối lớn quần chúng đã vũ trang, mà những khối lớn ấy chỉ nhờ có cách mạng mới có thể xuất hiện được. Chiến thuật và chiến lược ấy đã được Napoléon làm cho hoàn thiện đến mức mà các tướng lĩnh đương thời khôngmột ai có thể vượt nổi ông, và họ chỉ có thể cố gắng bắt chước ông trong các cuộc hành trình rực rỡ nhất, và may mắn nhất của họ mà thôi. "
Engels nhấn mạnh hai ''cái trục” trong vận dụng phương thức tác chiến của Napoléon trong nghệ thuật chiến tranh là: ". . . Sự tập trung quy mô lớn những phương tiện tiến công người, ngựa, pháo và tính cơ động của toàn bộ bộ máy tiến công ấy…”.
Trong nghệ thuật chiến dịch, nổi rõ tư tưởng tiến công của Napoléơn. Ông tiến công địch trên khắp các vị trí mỗi khi gặp thời cơ thuận lợi. Trong tình huống lực lượng của Napoléon ít hơn địch rõ rệt, nhưng mỗi lần xuất quân, đã biết làm cho mình mạnh hơn địch và thường hễ ông tiến công là đánh thắng.
Còn sinh thời, giấc mơ cuồng nhiệt của Napoléon là thâu tóm Châu Âu, nhất thể hoá Châu Âu và, nếu có thể, thì cả Châu Á nữa. Napoléon Bonaparte là ''một trong những hiện tượng kỳ lạ nhất trong lịch sử thế giới'' (E. Tác Lê).
ĐẠI TÁ QUÁCH HẢI LƯỢNG