TRẦN QUỐC TUẤN (1226 - 1300)
Trần Quốc Tuấn là con An Sinh Vương Trần Liễu và là cháu Vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), quê Làng Tức Mạc, Huyện Mỹ Lộc, Tỉnh Nam Định. Ông là nhà quân sự thiên tài và là anh hùng dân tộc vị chỉ huy thống lĩnh toàn quân, người lãnh đạo kháng chiến thành công chống quân Nguyên Mông xâm lược.
Nước ta trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược
Sau khi đánh thắng quân Tống, nhà Lý tiếp tục phát huy vai trò tích cực xây dựng đất nước trong một thời gian. Giai đoạn cuối Thế kỷ XI đầu Thế kỷ XII, kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp đều phát triển. Dân chúng làm ăn yên ổn, nhiều năm được mùa. Quốc gia thống nhất và chính quyền tập trung được củng cố thêm. Địa vị nước Đại Việt đối với các nước xung quanh được nâng cao. Phía Bắc nhà Tống kiêng nể, phía Nam quan hệ giao hảo với Chăm Pa, Chân Lạp được thiết lập. Nhưng đến khi nạn ngoại xâm không còn là mối đe dọa và nền thống trị trong nước đã vững, tầng lớp quý tộc nhà Lý lao vào hưởng lạc, sống xa hoa trên sự bóc lột nhân dân ngày càng tàn tệ. Từ giữa Thế kỷ XII, triều Lý bắt đầu suy thoái, nhanh chóng đi vào con đường suy vong.
Đầu năm 1226, triều Lý phải rời khỏi vũ đài chính trị để nhường chỗ cho một vương triều mới - Triều Trần (1226 - 1400). Sau khi thiết lập, triều Trần tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước, ra sức phục hồi và phát triển mọi mặt của đất nước. Chế độ trung ương tập quyền và bộ máy hành chính ở các địa phương được củng cố. Nhiều chính sách và biện pháp quan trọng nhằm củng cố bộ máy nhà được được áp dụng, định ra luật lệ "Quốc triều thông chế” (quy định về tổ chức hành chính), xây dựng chính quyền, ưu đãi hoàng tộc, quý tộc. Với việc phong ấp, giới quý tộc thời đó được giao quyền lực to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự nhằm phục hồi, phát triển sản xuất. Quỹ đất canh tác được mở rộng bằng tăng cường, khai hoang cùng với công điền cũng như trang ấp của các vương hầu và dân chúng. Đắp đê phòng lụt được đặc biệt chú ý. Triều định cử ra các quan hà đê, chánh phó sứ chuyên trách. Nền thủ công nghiệp và thương nghiệp có bước phát triển mới.
Công cuộc bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm được chăm lo toàn diện và tiếp tục thực hiện chế độ ''ngụ binh ư nông”. Chế độ đăng ký binh địch và thay phiên về sản xuất của quân thường trực được thi hành chặt chẽ. Lực lượng vũ trang thời Trần có nhiều loại quân: quân triều đình, quân địa phương, quân của các vương hầu và dân binh. Quân của các vương hầu có tác dụng củng cố ngai vàng, đồng thời có tác dụng góp phần bảo vệ đất nước. Chính vì thế nó đã tạo thêm sức mạnh cho chế độ trung ương tập quyền. Quân đội xây dựng theo hướng ''binh cốt tinh, không cốt nhiều”, thường xuyên củng cố mọi mặt từ biên chế, tổ chức cho đến huấn luyện. Năm 1246, quân đội đã có đủ bộ binh và thuỷ binh. Triều đình lập các Giảng võ đường đào tạo con em quý tộc trở thành những sĩ quan chỉ huy cao cấp. Nhiều bộ binh thư được các nhà lãnh đạo khuyến khích soạn thảo để huấn luyện cho quân đội. Bộ binh thư “Binh thư yếu lược'' của Trần Quốc Tuấn được rút ra từ tinh hoa của các trước tác ''trăm nhà”. Bên cạnh đó Trần Quốc Tuấn vẫn chú trọng đào tạo nhân tài một cách chính quy, định ra các luật thi cử đòi hỏi quan lại kể cả trong hàng ngũ quý tộc đều phải có học hành. Trên thực tế, triều Trần đã kết hợp xây dựng kinh tế với xây dựng quốc phòng. Nó đặt cơ sở cho việc tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước mà triều Trần có thể đủ sức huy động lực lượng, tạo thuận lợi, để “khi có việc chinh chiến, toàn dân đều là binh”.
Triều Trần đã xây dựng được sức mạnh tổng hợp của đất nước trên các lĩnh vực. Hào khí xây dựng và bảo vệ đất nước lên rất cao, nẩy nở nhiều nhân tài trong hàng ngũ quý tộc, hoàng tộc và trong dân chúng. Trong các nhân tài đó, Trần Quốc Tuấn đã nổi lên như một ngôi sao sáng và là người đã vận dụng được sức mạnh tổng hợp của cả đất nước. Đó là sức mạnh đoàn kết Vua - tôi, quân dân một lòng. Những hội nghị Bình Than, Diên Hồng đều đã đi vào lịch sử, biểu hiện ý chí và trí tuệ đánh giặc, giữ nước của toàn dân.
Cũng trong thời đó, đế quốc Mông Cổ lớn mạnh xâm lược nhiều nước trên lục địa Á - Âu, chiếm cứ một vùng đất rộng mênh mông từ bờ Thái Bình Dương đến tận bờ Biển Đen. Chúng đang có âm mưu bành trướng xuống phía Nam và muốn thốn tính nước ta.
Năm 1252, Mông Cổ thôn tính nước Đại Lý (Vân Nam - Trung Quốc) mở rộng lãnh thổ đến tận sát biên giới Tây Bắc nước ta. Năm 1257, chúng lại mở rộng cuộc tiến công lớn nhằm tiêu diệt Nam Tống. Để thực hiện mưu đồ bành trướng này, họ đã dùng một binh lực 3 vạn quân do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, từ đất Vân Nam tiến đánh Đại Việt. Đây là một gọng kìm, phối hợp với phương Bắc hình thành 3 mũi tiến công vào quân Nam Tống. Quân Mông Cổ đã áp sát biên giới Tây Bắc nước ta, bóng đen chiến tranh xâm lược đã trùm lên bầu trời Đại Việt Tổ quốc lâm nguy, nhưng quân dân cả nước Đại Việt đã sẵn sàng, đang bừng bừng khí thế chống quân xâm lược.
Đầu năm 1258, quân giặc theo lưu vực Sông Hồng tiến vào Đại Việt, đến 17-1 -1258 tới Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phú ngày nay), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất. Từ năm 1258 đến năm 1288, trong 30 năm quân Mông Nguyên tiến hành 3 cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt, và 3 lần đều bị đại bại, điều chưa từng có trong lịch sử Thế giới cho đến lúc đó.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (Tháng 1 năm 1258 đến tháng 2 năm 1258)
Trong điều kiện không thể tránh khỏi một cuộc chiến tranh, triều Trần tỏ thái độ cứng rắn trong ngoại giao, tống giam sứ giả Mông Cổ, chuẩn bị chấp nhận một cuộc chiến tranh ác liệt và gian khổ.
Theo lệnh Vua, Trần Quốc Tuấn chỉ huy các đại quân thuỷ bộ, triển khai bố trí phòng thủ biên giới.
Toàn bộ quân xâm lược có 3 vạn người, chỉ tiến đánh trên một hướng chiến lược, từ Vân Nam tiến vào vùng Tây Bắc nước ta. Ngày 17-1-1258 chúng tiến đến Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phú ngày nay). Vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy, chặn đánh địch trên tuyến bố phòng sẵn. Sau trận chiến đấu ác liệt, quân ta rút về Phủ Lỗ, phá cầu, chặn bước tiến của quân địch. Ta tiếp tục lập phòng tuyến trên bờ Nam sông Cà Lồ, kìm hãm tốc độ tiến công của địch, sau đó rút lui về Thăng Long. Để đảm bảo lực lượng, ta chủ động bỏ Kinh thành theo dòng Sông Hồng về đóng giữ vùng Thiên Mạc (khúc Sông Hồng chảy qua vùng Mạn Trù, Huyện Khoái Châu, Tỉnh Hải Hưng ngày nay), cách Thăng Long 30 km về phía Nam. Do quân ta dùng thuyền rút theo đường sông, nên kỵ binh Mông Cổ khó truy kích. Trong khi đó, quân dân nhà Trần thực hiện kế ''vườn không nhà trống”, triệt phá lương thực, Kinh thành Thăng Long trống rỗng.
Tổ chức chủ động rút lui là để chủ động phản công, Tinh thần kháng chiến rất vững chắc, vào lúc gay go quyết liệt nhất, thái sư Trần Thủ Độ tuyên bố đanh thép: ''Đầu tôi chưa rơi xuống, xin bệ hạ đừng lo”.
Bị tiêu hao trên đường tiến quân và chịu vây hãm trong một Kinh thành không lương thực, kẻ địch tâm vào thế bị động, không có mục tiêu tiến công, ở thế chờ bị phản công. Sau 9 ngày vào Thăng Long đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai đã mất hết "nhuệ khí ban mai" của một đạo quân tiến công.
Đúng lúc xuất hiện thời cơ phản công, quân ta từ Thiên Mạc, ngược sông Hồng, tiến vào Thăng Long, đánh thẳng vào Đông Bộ Đầu (phía trên Cầu Long Biên - Hà Nội ngày nay), nơi đầu não chỉ huy và là lực lượng quan trọng của địch. Ngày 29 tháng 1 năm 1258, ta mở cuộc phản công, địch bị bật ra khỏi Thăng long, theo hướng Tây Bắc bỏ chạy về Vân Nam. Rút về đến Quy Hoá, quân địch lại bị quân dân địa phương dưới sự chỉ huy của Hà Bổng chặn đánh và tiêu diệt phần lớn binh lực. Ngày 5 tháng 2 năm 1258, Tết Nguyên Đán năm Mậu Ngọ, Vua Trần Nhân Tông làm lễ phong thưởng các tướng soái có công, ăn mừng chiến thắng, ca khúc khải hoàn.
Trận Đông Bộ Đầu là trận tập kích chiến lược, giành thắng lợi trong một đêm. Đó là kết quả của chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật tổ chức thực hành trận đánh. Cuộc kháng chiến năm 1258 của nhân dân ta giành thắng lợi, đánh bại âm mưu của đế quốc Mông Cổ muốn thôn tính Đại Việt, đồng thời bẻ gãy mũi vu hồi chiến lược của chúng vào sau lưng của quân Tống. Đụng đầu lần thứ nhất với quân Mông Cổ triều Trần đã có những điểm đặc sắc trong nghệ thuật quân sự: Sau một số trận đầu, nhanh chóng phán đoán chính xác tình huống chiến tranh, so sánh lực lượng địch ta, kịp thời áp dụng phương thức tác chiến chiến lược, chủ động lui quân, không quyết chiến với địch khi chúng còn đang mạnh, bảo toàn lực lượng ta; Không giữ đất, cố thủ kinh thành, thực hiện ''vườn không nhà trống'' đẩy địch vào tình thế khó khăn khi chúng vào Thăng Long - một Kinh thành trống rỗng, ý đồ chiến lược của địch bị phá sản, ta có điều kiện thuận lợi tổ chức phản công; Sau khi củng cố chấn chỉnh lực lượng, chớp đúng thời cơ phản công, bằng một đòn tập kích chiến lược đánh trúng chỗ yếu hại, khiến địch còn đông mà phải vội rút chạy.
Trong cuộc chiến tranh này, Trần Quốc Tuấn đã tỏ ra là một nhà chiến lược - chiến thuật có tài. Về mặt chỉ đạo chiến lược, Trần Quốc Tuấn hết sức mình, sức địch nên kiên quyết bảo toàn lực lượng, dụ địch vào sâu, kéo kỵ binh của chúng vào một địa hình bất lợi - như đồng bằng Bắc Bộ nhiều sông nước để chiến đấu, triệt nguồn lương thảo và khéo chọn thời cơ phản công, chọn mục tiêu chiến lược để tập trung binh lực thực hành đột kích kiên quyết.
Sau cuộc kháng chiến lần thứ nhất là thời kỳ tạm hoà hoãn suốt 26 năm từ năm 1258 đến năm 1284. Giai đoạn này, ta phải đấu tranh ngoại giao rất phức tạp, gay go. Nhà Trần kiên quyết giữ vững chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ, mặt khác lại rất mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược để có thể tránh được hoạ binh đao khi còn có thể và kéo dài thời gian chuẩn bị kháng chiến. Nhà Trần đã phải nhượng bộ một số mặt, như cống nạp, chịu phong vương, thậm chí còn phát nhận một chức giám sát của nhà Nguyên bên cạnh triều đình nước ta. Nhưng trước những yêu sách xấc láo hoặc xâm phạm đến quốc thể thì nhà Trần vẫn kiên quyết, như trói sứ giả của địch rồi đuổi về nước, hoặc rất khôn khéo tìm các lý do để từ chối, chẳng hạn như Vua Trần thác ốm, không chịu sang chầu. Giai đoạn đấu tranh ngoại giao này là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ cuộc kháng chiến, nhưng đó là cuộc đấu tranh phi quân sự. Nó cũng thể hiện tư duy chiến lược của nhà Trần ''lấy nhỏ đánh lớn”, ''lấy yếu chọi mạnh”, “lấy ít địch nhiều" vận dụng phương pháp đấu tranh trong điều kiện có hoà bình.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai (Tháng 1 năm 1285 đến tháng 6 năm 1285)
Từ năm 1258 đến năm 1281, ta đã chủ động thiết lập mối quan hệ bang giao hoà bình với nhà Nguyên.
Song đến năm 1282, nhà Nguyên mượn cớ đi đánh Chăm Pa, mưu đồ xâm chiếm nước ta. Triều Trần triệu tập hội nghị Bình Than, hội nghị của các vương hầu, tướng soái cấp cao để bàn việc kháng chiến. Hội nghị đã động viên được tinh thần kháng chiến trong tầng lớp quý tộc, quan lại. Vua Trần Nhân Tông giao phó trọng trách tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến cho những hoàng thân và tướng soái tài ba, dũng lược. Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải giữ chức Thượng tướng Thái Sư, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh toàn bộ quân đội. Quân đội nhà Trần đã tổ chức duyệt binh và diễn tập lớn. Quân chủ lực của triều đình và dân binh địa phương, quân của các vương hầu nhanh chóng tăng lên về số lượng và chất lượng. Người có tài năng quân sự từ trong các tầng lớp nhân dân được đề bạt làm chỉ huy quân đội. Bài Hịch tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn đã cổ vũ mạnh mẽ quyết tâm kháng chiến của toàn thể quân sĩ. Được khích lệ, các chiến sĩ tự thích vào cánh tay hai chữ ''Sát Thát" (giết quân xâm lược Mông Cổ).
Đầu năm 1285, quân thù đến sát biên giới, hội nghị Diên Hồng được triệu tập. Các bô lão - những đại biểu có uy tín của nhân dân, được Vua mời về Kinh thành để hỏi kế đánh giặc. Các vị đã đại diện cho ý nguyện của toàn dân đồng thanh hô: ''Đánh!”.
Cuộc kháng chiến lần này được chuẩn bị chu đáo trên các mặt linh thần, vật chất. Trần Quốc Tuấn bố trí các đơn vị chủ lực về các vị trí chiến đấu. Ở các xóm làng, trai tráng tự vũ trang và thành lập các đội dân binh, sẵn sàng tham gia chiến đấu diệt giặc. Toàn dân thực hiện kế ''vườn không nhà trống”. Triều đình ra lệnh: "Tất cả các quận, huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào núi rừng, không được đầu hàng. . .”
Cuối tháng 1 năm 1285, các mũi tiến công của quân Nguyên bắt đầu qua biên ải. Thế giặc lần này khác nhiều so với lần trước, vì lúc này nhà Nguyên đã chiếm xong Trung Quốc, Cao Ly, đạo quân ''bách thắng” vừa đông, vừa mạnh. Quân Nguyên tiến công trên 3 hướng chiến lược: - Trên hướng Bắc, Tây Bắc, quân giặc từ Vân Nam sang, tiến theo lưu vực Sông Chảy, do tướng Naritxuđin thống lĩnh; - hướng Bắc, là quân chủ lực của địch, do tướng Tôgan (Thoát Hoan) trực tiếp chỉ huy, từ Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn - hướng Nam là đạo quân của Toa Đô, từ Chăm Pa tiến công ra vùng Nghệ An, Thanh Hoá.
Thoát Hoan là con trai Hốt Tất Liệt (Khubilai) được phong làm Trấn Nam Vương, giữ chức tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân viễn chinh. Chỉ tính riêng 2 mũi tiến công trên miền Bắc Đại Việt, quân số của địch đã có tới 50 vạn người (theo Đại Việt sử ký toàn thư).
Vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần - Trần Quốc Tuấn tự đảm nhiệm chỉ huy tác chiến trên hướng Lạng Sơn. Đây là mặt trận xung yếu, rất quan trọng. Tướng Trần Nhật Duật phụ trách hướng Tây Bắc, còn Thượng tướng Trần Quang Khải phụ trách mặt trận hướng Nam.
Trên cả 3 hướng chiến lược, quân ta đều tổ chức đánh địch quyết liệt, sau đó thực hành rút lui chiến lược bảo toàn lực lượng.
Quân ta tổ chức đánh địch theo từng bước, từng trận, sử dụng nhiều tướng tài chỉ huy các trận đánh nổi tiếng: Phạm Ngũ Lão giữ từ biên giới đến Chi Lăng; Nguyễn Lộc ở Châu Thất Nguyên (Tràng Định, Lạng Sơn). Cả hai tướng đều chấp hành cách đánh chặn, tiêu hao sinh lực địch, hãm chậm tốc độ tiến công của chúng. Trần Bình Trọng chặn đánh địch ở Đa Mạc, ông bị địch bắt và bị giết ngày 26-2-1258, nhưng đã làm cho địch không đủ sức tiến đến Thiên Trường. Trước dụ dỗ của địch, ông trả lời tướng Mông Cổ rằng: ''Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”.
Nghệ thuật quân sự tài tình của Trần Quốc Tuấn là tổ chức đánh địch khắp nơi, mọi lúc, dùng sức mạnh toàn quân, toàn dân buộc chúng phải tác chiến liên miên, mà lại không tổ chức nổi một trận đánh quyết liệt nào mang tính chiến lược để tiêu diệt chủ lực của la. Trần Quốc Tuấn vận dụng nghệ thuật quân sự khôn khéo làm chuyển biến thế trận ngày càng có lợi cho ta, còn quân địch thì bị nhụt nhuệ khí và trở nên mệt mỏi, rơi vào cảnh khốn quẫn, toàn bộ lực lượng bị phân tán, và phải căng ra đối phó bị động. Cánh quân Thoát Hoan bị rải ra từ Lạng Sơn đến Thăng Long thành nhiều trại (cứ 90 dặm lại có một trại quân, 60 dặm một trại ngựa), mỗi trại có 300 quân. Trên hướng Nam, địch cũng rải thành một hệ thống trại, đóng từ Thiên Trường kéo đến Thăng Long.
Tháng 5 năm 1285, quân ta tổ chức phản công. Trần Quốc Tuấn tiến quân ra Bắc, dùng cách đánh chia cắt tách đại quân của Toa Đô ra khỏi đại quân của Thoát Hoan, tiến công bất ngờ rất mãnh liệt vào các căn cứ phòng thủ của địch ở Nam Thăng Long. Trên khắp chiến trường, chiến tranh du kích phát triển, dân binh phối hợp với chủ lực tham gia tích cực các cuộc phản công. Quân ta liêu diệt một loạt hệ thống căn cứ địch ở A Lỗ (Nam Hà hiện nay), Tây Kết (Khoái Châu, Hải Hưng ngày nay), Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây ngày nay). Hệ thống phòng thủ của địch trên Sông Hồng bị phá vỡ hoàn toàn. Cùng lúc ta tiến công dữ dội vào Thăng Long, đã diễn ra nhiều trận mai phục lớn ở Sông Cầu, Vạn Kiếp, tiêu diệt vô số quân giặc. Trần Quốc Tuấn cùng triều đình đã phát động được một cuộc chiến tranh nhân dân, huy động tổng lực toàn dân tham gia kháng chiến, lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, kết hợp quân triều đình với quân các lộ và hương binh, thực hành chính sách “vườn không nhà trống”.
Trong kháng chiến lần này, Trần Quốc Tuấn đã tỏ rõ tài chỉ huy, chủ động đánh địch khi chúng rút lui tạo nên nghệ thuật buộc địch phải hành động theo ý mình. Ông đã tổ chức đánh chặn, không cho địch chạy theo đường về Chi Lăng, rồi còn đánh chặn chúng ở Sông Thương buộc địch phải chạy về Vạn Kiếp. Đúng lúc chúng rút lui qua cầu phao thì rơi vào trận địa phục kích của quân ta. Giặc Nguyên bị đòn phản công mãnh liệt, chết rất nhiều do cầu phao bị đứt. Tiếp đó quân ta lại chặn đánh từng đoạn từ Vạn Kiếp đến tận biên giới. Cánh quân chủ lực của Thoát Hoan bị tan tác mà Toa Đô không biết. Ngày 11 tháng 6 năm 1285, Toa Đô từ Thanh Hoá tiến ra Bắc theo đường thuỷ Sông Hồng lên đến Hàm Tử, 21-6-1285 đến Tây Kết, 24-6-1285 bị tiêu diệt tại đó. Cánh quân Tây Bắc bị thiệt hại nặng, bỏ chạy về Vân Nam.
Cuộc phản công diễn ra trong hai tháng trời bằng một loạt các trận chiến đấu ở Chương Dương, Thăng Long, Tây Kết, Vạn Kiếp. Hàng loạt các trận chiến đấu ấy đã làm hình thành một loại hình chiến dịch có tính chiến lược nằm trong toàn bộ cuộc chiến tranh cả nước và có vai trò quyết đỉnh đến thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến tranh. Kết quả là quân ta đã đánh bại 60 vạn quân địch. Tính thời gian toàn bộ cuộc chiến tranh là hết sáu tháng. Đây là một cuộc đọ sức giữa hai quốc gia, giữa hai nền nghệ thuật quân sự. Nghệ thuật quân sự Trần Quốc Tuấn - nghệ thuật của chiến thắng. Khi quân Nguyên vừa kéo đến biên giới, Trần Quốc Tuấn đã có nhận định tình hình, đánh giá địch, và ông đã góp ý với nhà vua rằng: "Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức... Nếu, giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ào ào như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu chúng đi chậm như tằm ăn, không cần của dân, không cần được chóng thì phải chọn tướng giỏi xem xét quyền biên như đánh cờ vậy, tuỳ thời mà làm, có thu được quân lính một lòng như cha con một nhà thì mới dùng được. Vả lại khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Qua quá trình thực tiễn phong phú của hai cuộc kháng chiến, nhất là cuộc kháng chiến lần thứ hai, quân dân Đại Việt đã đạt được một nhận thức hoàn chỉnh về phương lược giữ nước. Trong cuộc chiến tranh chống giặc Mông Nguyên tàn bạo, Đại Việt có thể quả quyết rằng sẽ giữ được ''Non sông muôn thuở vững vàng”. Và, Trần Quốc Tuấn đứng đầu cuộc chiến tranh chống Mông Nguyên xâm lược lần thứ ba đã đầy tự tin, ung dung nhận định ''năm nay thế giặc nhàn”.
Cuộc kháng chiến lần thứ ba (Năm 1287 - năm 1288)
Cuộc kháng chiến tần này xảy ra khi đế quốc Mông Cổ đã đạt tới điểm giới hạn trong hành động bành trướng. Qua các lần xâm lược không thành công vào Đại việt, Nhật Bản, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt cay cú, điên cuồng tìm mọi cách đánh trả thù. Mũi nhọn tập trung vào Đại Việt. Cũng trong lúc này, trên lãnh thổ mênh mông của đế chế vừa dựng lên, nhà Nguyên rối bận đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân bị thống trị. Vì vậy, để có đủ số quân đi đánh Đại Việt, buộc chúng phải vơ vét, tổ chức vá víu. Thành phần đoàn quân viễn chinh không thuần nhất, gồm quân Mông Cổ, quân Hán (người Trung Quốc phương Bắc), quân Tân Phụ (người Trung Quốc phương Nam), quân người Di ở Vân Nam, quân người Lê ở đảo Hải Nam, quân người Choang ở Quảng Tây... Theo ghi chú của Đại Việt sử ký toàn thư tổng số quân giặc sang đánh Đại Việt lên tới 50 vạn. Ngoài bộ binh và kỵ binh, lần này địch tổ chức một đoàn thuyền chiến hùng mạnh 500 chiếc với gần 2 vạn quân, giao cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Tránh vận chuyển lương thực trên đường bộ, địch tổ chức đoàn thuyền lương giao cho tên cướp biển Trương Văn Hổ chỉ huy chở 70 vạn thạch lương (số lương thực nhiều gấp 5 lần khi xâm lược Đại Việt lần thứ hai). Ô Mã Nhi chỉ huy đoàn thuyền chiến hộ tống đoàn thuyền lương này.
Tháng 12 năm 1287, quân Nguyên tiến quân trên 3 hướng vào đánh Đại Việt.
Hướng Bắc - quân chủ lực, do Thoát Hoan chỉ huy, từ Quảng Tây tiến vào vùng Lạng Sơn của ta. Ngày 25-12-1287, chia thành 2 mũi tiến vào Chi Lăng và Lộc Bình - Sơn Động. Sau 4 ngày giặc tiến đến Vạn Kiếp. Tại đây, chúng xây dựng căn cứ, triển khai bố trí chiếm đóng, chờ tiến công Thành Thăng Long.
Hướng Tây Bắc do A Rúc chỉ huy, từ Vân Nam đi theo dọc Sông Hồng tiến vào Đại Việt. Ngày 11-12-1287 giặc đến Bạch Hạc, ngày 19-12-1287 chúng đánh ải Phú Lương. Trên mặt trận này vẫn do tướng Trần Nhật Quật chỉ huy đánh chặn quân địch.
Hướng Đông Bắc do các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thống lĩnh 500 chiến thuyền, cùng với đoàn thuyền chở 70 vạn thạch lương đã từ Khâm Châu, Quảng Đông theo đường biển tiến vào cửa Sông Bạch Đằng. Rút kinh nghiệm bị thất bại trong các cuộc chiến tranh lần trước, trong đó có một nguyên nhân do thiếu lương thực, nên lần này chúng tổ chức thuỷ quân hùng mạnh bảo vệ chặt chẽ đoàn thuyền lương.
Tướng Trần Khánh Dư được giao nhiệm vụ đánh cánh quân này. Ông đã chỉ huy trận đánh vô cùng xuất sắc, tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tại Vân Đồn vào đúng thời cơ đoàn thuyền chiến Ô Mã Nhi đã tách khỏi đội hình, vượt lên trước để về hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Đoàn thuyền lương không có lực lượng bảo vệ chịu số phận bị tiêu diệt gọn tại Cửa Lục, Hòn Gai. Quân địch bị mất hoàn toàn hậu cần tiếp tế, chiến lược lâm vào thế bí.
Mục tiêu tiến công cuối cùng của địch là hạ Thành Thăng Long.
Nghệ thuật quân sự Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến lần này là đánh tiêu diệt địch trên đường chúng rút chạy. Ông sử dụng 30 vạn quân bám đánh địch trên đoạn đường dài 100 dặm, liên tục đánh vào cánh quân Thoát Hoan (ở thời điểm này, cánh quân của Trịnh Bằng Phi không vượt qua được tuyến Đông Bắc cũng trở lại nhập vào cánh quân của Thoát Hoan). Mặt khác, Trần Quốc Tuấn hạ quyết tâm dùng thuỷ binh và bộ binh tiêu diệt cánh thuỷ binh của Ô Mã Nhi, và chọn Sông Bạch Đằng làm điểm quyết chiến. Trần Quốc Tuấn đích thân chỉ huy trận đánh, có tướng Nguyễn Khoái tham gia. Ngày 9 tháng 4 năm 1288 đã diễn ra trận Bạch Đằng lịch sử. Quân địch muốn lợi dụng nước triều đang xuống để rút nhanh ra biển, nhưng bị quân ta đánh và lừa vào thế trận bố trí sẵn. Đoàn chiến thuyền địch lại bị va vào cọc ngầm, chìm gần hết, vô số lính thương vong. Trận quyết chiến diễn ra trong một ngày. Kết quả là ta bắt sống bọn chủ tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, tiêu diệt 400 chiến thuyền trong tổng số 500 chiếc.
Cánh quân Thoát Hoan trên đường rút cũng bị quân dân ta chặn đánh liên tục.
Cuộc kháng chiến lần thứ ba của ta giành thắng lợi hoàn toàn. Sau năm 1288, ý chí xâm lược của Nguyên Mông cơ bản bị đè bẹp, đại bại, nền độc lập tự chủ của Đại Việt được giữ vững.
Ba cuộc kháng chiến của triều Trần là những cuộc thử thách lớn nhất, là những cuộc đọ sức quyết liệt nhất trong lịch sử xã hội phong kiến nước ta. Quân Nguyên là một đạo quân xâm lược lớn nhất, hung hãn nhất của Thế kỷ XIII, chúng đã bắt Trung Quốc phải chịu khuất phục, chúng đã tư do hoành hành khắp lục địa Á - Âu. Quân Nguyên bị đánh bại ở Đại Việt, đồng thời cũng bị thất bại trong âm mưu bành trướng xuống Đông Nam Châu Á.
Về mặt nghệ thuật bảo vệ Tổ quốc và nghệ thuật quân sự, Trần Quốc Tuấn đã giải quyết sáng tạo cách đánh tiến công, phản công, phòng ngự, rút lui, tiêu diệt chiến lược và nghệ thuật quyết chiến chiến lược. Ông có cống hiến rất lớn cho nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặt cơ sở hình thành binh pháp Việt Nam. Ông đã để lại cho đời sau các binh thư quý giá. Ông không những là một vị thống soái lỗi lạc mà còn là một nhà tư tưởng lớn. Ông có quan điểm biện chứng về quân sự, biết điều kiện khách quan chủ quan, nhận thấy những mâu thuẫn trong chiến tranh và biết cách giải quyết các mâu thuẫn.
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng quốc, là một tướng biết trị quốc, văn võ kiêm toàn, có đạo đức, lòng nhân nghĩa. Ông có tài và đức trị quốc, quy tụ được lòng dân, đoàn kết rộng rãi cả nước, toàn dân, toàn quân và trong lãnh đạo cấp cao. Ông nói: "Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức… và giặc cậy trường trận, ta cậy đoản bính…Và có thu được quân lính như cha con một nhà thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước. Ông còn chỉ rõ: ''Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới thông địa lý, giữa biết việc người, cõi bốn biển như một nhà. Đó là tướng chỉ huy cả thiên hạ, không ai địch nổi”.
Trần Quốc Tuấn xứng danh là người anh hùng dân tộc. Ông là chiến tướng, trí tướng, nhân tướng, một danh tướng có đạo đức phẩm chất cao đẹp. Ông là hiện thân của các đức trí, nhân, dũng, tín, liêm, trung, Trần Quốc Tuấn có công lao to lớn trong 3 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên, Mông đầu Thế kỷ XIII. Khi về hưu, ông sống ở Vạn Kiếp, mất năm Canh Tý (20/8 Âm lịch, tức 5-9-1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông bên chiến trường xưa gọi là đền Kiếp Bạc, vẫn hương khói cho đến ngày nay.
ĐẠI TÁ QUÁCH HẢI LƯỢNG