LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 - 1105)
Lý Thường Kiệt, một danh tướng, đại thần nhà Lý. Họ tên thật là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt. Sau vì những công trạng lớn được ban theo họ Vua, nên lấy tự làm tên và mang họ Lý. Lúc mất có tên là Quảng Châu, quê ở Phủ Thái Hoà, Thành Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ ông đã có chí hướng lớn, ham đọc sách, say sưa nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông có đủ tài văn, võ, năm 23 tuổi được bổ làm Hoàng mơn chi hậu, rồi được thăng dần lên Thái Uý. Trải qua 3 triều Vua: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, ông có nhiều công lao phục vụ trong kháng chiến chống quân nhà Tống, dẹp giặc Chiêm Thành, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Khi Nhân Tông lên ngôi, ông giữ chức vụ Phụ Quốc Thái Uý (cương vị thư Tể tướng).
Danh tướng Lý Thường Kiệt là một vị anh hùng dân tộc, một nhà quân sự kiệt xuất, tài thao lược lỗi lạc cùng với tài chính trị và ngoại giao xuất sắc. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075. Cuộc kháng chiến lần này xảy ra trong hoàn cảnh Đại Việt đã phát triển phồn thịnh trên mọi mặt. Kể từ sau kháng chiến chống Tống năm 981 thắng lợi, nhà Tiền Lê trị vì đất nước ngót ba chục năm thì suy vi. Năm 1009, Vương triều Lê chuyển sang Lý. Năm 1010 nhà Lý dời đô từ hoa Lư ra Thành Đại La và lấy tên là Thăng Long, rồi chia lại đất nước thành 24 lộ, năm 1054 đổi tên nước thành Đại Việt. Nhà Lý khuyến khích nông nghiệp, thủ công nghiệp, từng bước cũng cố bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, chăm lo võ bị phòng thủ đất nước. Để giữ vững, củng cố biên cương, nhà Lý coi trọng thu phục các tù trưởng miền núi tạo nên một vành đai phòng thủ vòng ngoài rộng lớn nhằm chống nguy cơ bành trướng của đế chế Tống. Về xây dựng lực lượng vũ trang, nhà Lý thực hiện chính sách ''ngụ binh nông'' (giữ binh ở trong nông), thực hành chế độ binh dịch với tất cả đinh tráng (sung vào quân thường trực, hoặc làm quân dự bị) áp dụng chính sách cho lính thay phiên về tham gia sản xuất. Bị đại bại trong năm 981, nhưng dã tâm xâm lược của nhà Tống chưa bị đập tan. Phải đến gần một Thế kỷ sau (vào cuối những năm 60 đầu những năm 70 của Thế kỷ XI), Tống Thần Tông cùng Tể tướng Vương An Thạch, tập trung mọi cố gắng chuẩn bị chiến tranh xâm lược Đại Việt. Mục tiêu chiến tranh là chiếm và biến Đại Việt thành các quận huyện của Trung Quốc, tạo thế uy hiếp Liêu, Hạ ở phía Bắc, là 2 nước đã dám ngang nhiên chống lại bá quyền của “Thiên triều”. Cách đánh chiến lược của thà Tống là tấn công bằng hai gọng kìm, phía Bắc xuống là quân Trung Quốc, phía Nam lên sẽ dùng quân Chiêm Thành. Âm mưu của nhà Tống muốn lôi kéo Chiêm vào chiến tranh cũng phù hợp với ý đồ của Vua Chiêm muốn dựa vào uy lực của nhà Tống để tấn công Đại Việt. Chủ trương của nhà Tống là “Trước Nam, sau Bắc”, thôn tính xong Đại Việt rồi mới quay lại đánh Liêu, Hạ.
Vừa ra sức chuẩn bị lực lượng quân sự, nhà Tống vừa tiến hành các thủ đoạn chia rẽ dân tộc Việt giữa miền núi với miền xuôi, lôi kéo Chiêm Thành chống Đại Việt. Nắm được âm mưu địch, nhà Lý ra sức chuẩn bị đối phó, thực hiện nhiều biện pháp chiến lược quan trọng, phát triển sản xuất nông nghiệp, nới rộng các luật lệ, giảm thuế, tranh thủ lòng dân miền núi, tích cực luyện binh, tổ chức phòng thủ biên giới trên cả 2 phương hướng Bắc và Nam. Nhà Lý đã tăng cường đoàn kết thống nhất trong lãnh đạo cấp cao, đoàn kết vua tôi, hậu đãi các lão thần, mở khoa thi luyến chọn nhân tài…
Theo dõi chặt chẽ âm mưu xâm lược của nhà Tống, nhà Lý đã chủ động chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến với tinh thần chủ động. Ngay từ năm 1067, phát hiện thà Tống mua chuộc Chiêm Thành, chia rẽ Chiêm Thành với Đại Việt, thì nhà Lý có chủ trương chiến lược là phải giữ yên và củng cố biên giới phía Nam trước rồi quay trở lại đối phó với nguy cơ xâm lược từ phương Bắc. Đại tướng Lý Thường Kiệt có sự lãnh đạo của Vua Lý Thánh Tông đã chỉ huy quân đội đánh tan lực lượng quân sự Chiêm Thành rồi nhanh chóng rút quân về nước, giữ ổn định biên giới phía Nam.
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi lúc mới 7 tuổi, nhà Tống coi đây là một thời cơ thuận lợi để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Về công tác chuẩn bị trực tiếp, nhà Tống chuẩn bị ba căn cứ quân sự quan trọng là các Châu Ung, Khâm và Liêm (thuộc Tỉnh Quảng Châu và Quảng Tây ngày nay). Tại nơi đây nhà Tống tập trung quân đội, lương thực, khí giới, sẵn sàng tiến quân xâm chiếm Đại Việt.
Nhà Lý đã chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cơ bản của kế sách giữ nước, thể hiện tư duy chiến lược giữ nước một cách hoàn chỉnh. Đến năm 1075, Đại Việt đã rất sẵn sàng.
Nắm chắc và đánh giá chính xác về khả năng không thể tránh khỏi một cuộc chiến tranh, cũng như chỗ mạnh, chỗ yếu của quân Tống, nhằm đúng lúc Tống đang gặp nhiều khó khăn lớn, trong thì nhân dân chống đối, ngoài thì Liêu, Hạ uy hiếp, Lý Thường Kiệt đã chủ động mở đầu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bằng một cuộc tiến công trước. Cuộc tiến công này nhằm phá thế chuẩn bị của địch, đẩy chúng vào thế bị động ngay từ đầu và tạo điều kiện có lợi nhất cho cuộc kháng chiến của Đại Việt lúc này, nhà Tống đã tập trung khoảng 10 vạn quân đang luyện tập ở các căn cứ Châu Ung, Khâm, Liêm, nhưng chưa điều động 45 ngàn cấm binh thiện chiến từ phương Bắc để lập đạo quân chủ lực. Lý Thường Kiệt nói: ''Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông đã chỉ huy 10 vạn quân tiến vào đất Tống. Ngày 27-1 0-1075, cuộc tiến công bắt đầu. Trước tiên, ông dùng 4 vạn quân (gồm phần lớn thổ binh) tiến quân dọc biên giới nhằm thu hút lực lượng địch. Đạo quân này tiến theo đường bộ từ Quảng Nguyên, Quang Long, Tô Mậu, do Tông Đản, Hoàng Kim Hân, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Vi Thủ An là những thủ lĩnh của các dân tộc thiểu số chỉ huy, chia làm nhiều mũi bất ngờ đánh vào toàn bộ hệ thống đồn trại quân Tống. Trước sức tấn công mãnh liệt, bất ngờ của quân ta, quân Tống rối loạn thế trận, không chống đỡ nổi, phần bị chết, phần bị bắt sống, số còn lại tháo chạy về hướng Châu Ung. Quân ta tiếp tục truy kích, triệt phá đồn trại giặc trên dọc đường tiến, thừa thắng hợp quân, vây Thành Châu Ung. Trong lúc quân Tống đang tập trung đối phó với cánh quân ta trên bộ ở hướng Tây và Tây Nam Châu Ung, thì ngày 30-12-1075 Lý Thường Kiệt cầm khoảng 6 vạn quân tiến theo đường thuỷ, từ Vĩnh An đến Khâm Châu. Đêm 31-12-1075 tiền quân ta gồm một số vệ quân thiện chiến bí mật đổ bộ vào cảng Khâm, bất ngờ chiếm lấy Thành Khâm Châu. Ngày 2-1-1076 thuỷ binh ta tiến vào cửa biển Liêm Châu, đổ bộ và nhanh chóng chia thành nhiều mũi tiến công, bao vây chiếm Thành Liêm Châu.Tiếp đó, Lý Thường Kiệt phái một số vệ quân phát triển tiến công nhanh về hướng Bạch Châu và Ung Châu để nghi binh và bảo vệ cạnh sườn phía sau cho đại quân tiến về Thành Ung Châu.
Khoảng trung tuần tháng 1-1076, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy quân chủ lực từ Khâm, Liêm tiến đến Ung Châu và hợp quân tại đây, thực hành bao vây bốn mặt thành. Ngày 18-1-1076, ta bắt đầu đánh thành. Ngay khi Thành Ung bị đánh, Vua Tống và Vương An Thạch ra lệnh cho Tô Giám cố thủ nhằm giam chặt chân quân ta trên đất Tống để phối hợp với cánh quân Quách Quỳ từ phương Bắc dùng chiến thuyền vượt biển nhanh chóng đánh chiếm Kinh đô Đại Việt. Đồng thời Vua Tống phái Trương Thủ Tiết chỉ huy đạo kỵ binh khoảng 1 vạn đến Ung Châu ứng cứu cho Tô Giám. Khi bắt đầu tấn công Ung Châu, Lý Thường Kiệt đã cho 1 đạo quân mai phục ở Ải Côn Luân cách Ung Châu khoảng 80 mươi dặm, chờ đánh viện binh địch. Đạo kỵ binh địch bị ta nhanh chóng tiêu diệt, Trương Thủ Tiết chết ngay tại trận. Diệt xong viện binh địch, Lý Thường Kiệt tập trung toàn lực đánh chiếm Thành Ung Châu. Ngày 1/3/1076 quân ta hạ được thành sau 42 ngày vây hãm và tiến công. Lý Thường Kiệt ra lệnh huỷ thành luỹ, phá các kho tàng trong cả vùng Tả Giang, lấy đá lấp sông nhằm chặn quân viện của Tống đi theo đường thuỷ. Mặt khác ông phái một đạo quân thừa thắng tiến công đánh chiếm Thành Tân Châu, để nghi binh và chặn địch phản kích trong khi quân ta đang thu dọn chiến trường và tổ chức rút quân. Thành Tân Châu bị đánh và mất, Vua Tống lúng túng, nhân đó Lý Thường Kiệt chia quân thành 2 đạo thuỷ bộ chủ động rút quân về nước. Ông lệnh cho đạo quân đánh Tân Châu tiếp tục án ngữ, rút sau, bảo vệ an toàn cho đại quân rút về nước.
Với đòn đánh phủ đầu phá chuẩn bị của địch, ta đã tiêu diệt hàng chục vạn quân địch đang chuẩn bị xâm lược Đại Việt, phá các căn cứ và phương tiện chiến tranh, thu và phá hàng vạn tấn lương thảo, khí giới, chiến cụ. Đòn đánh phản chuẩn bị này ngay trên đất địch được tổ chức với quy mô chiến dịch, thực hành rất chủ động, buộc địch phải tổ chức chuẩn bị lại cho cuộc chiến tranh xâm lược. Trong quá trình tiến công, Lý Thường Kiệt còn triển khai công tác vận động tranh thủ sự đồng tình của dân chúng Trung Quốc, làm rõ mục đích chính trị của cuộc tiến công. Đòn tiến công này chính là một bộ phận khăng khít và là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai.
Tháng 4-1076 sau khi rút quân về, Lý Thường Kiệt với ý định có sẵn, đã nhanh chóng bắt tay vào tổ chức phòng thủ đất nước. Ông lập ''phòng tuyến Sông Cầu" - một phòng tuyến nổi tiếng với chiến thắng oanh liệt sau này của nó. Tuyến phòng thủ Sông Cầu được xây dựng ở đầu mối giao thông thuỷ bộ trên cửa ngõ vào Thăng Long là cách tổ chức và lập thế trận chọn sẵn, dùng cách đánh sáng tạo để chuyển thế trận từ phòng ngự sang phản công, tiến công cuối cùng giành thắng lợi tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ quân xâm lược nhà Tống. Thế trận ''phòng tuyến Sông Cầu" bố trí, triển khai trong thế trận cả nước thể hiện tư tưởng tiến công của nghệ thuật quân sự Lý Thường Kiệt.
Tuyến phòng thủ xây dựng theo thế ''hoành trận”, bắt đầu từ mỏm Núi Đền thuộc dãy Tam Đảo, kéo dài theo nam ngạn Sông Như Nguyệt, tiếp thẳng sang hướng Đông, qua Sông Lục Đầu (Phả Lại), nốt vào sườn Tây Núi Ông Sư của dải Yên Tử. Phòng tuyến được xây dựng theo hình thức đứt đoạn, có chiều dài hàng trăm km và chốt chặt những nơi hiểm yếu. Tính toán những nơi quân địch có khả năng vượt sông tiến công, Lý Thường Kiệt đều tổ chức xây đắp chiến luỹ kiên cố. Bản thân phòng tuyến được xây dựng vững chắc, lại kết hợp rất chặt chẽ với hệ thống thành quách đồn ải ở phía Bắc, như các Thành Quảng Nguyên, Môn Châu, Quang Lang, Tô Mậu, Vành An, và các ải Quyết Lý, Giáp Khâu, Động Giáp. . . cùng với lực lượng thuỷ binh bố trí trên Sông Đông Kênh (cùng biển Đông Bắc ngày nay). Thế trận phòng ngự liên hoàn này lập trên chính diện rộng, có chiều sâu, kết hợp được phòng ngự ở từng khu vực với toàn chiến tuyến. Nhờ vậy ta có thể phát huy đầy đủ sức mạnh của các lực lượng vũ trang trong chiến đấu tiến công cũng như phòng ngự. Phòng tuyến dựa vào hiểm địa, có sông sâu thành cao, giậu dầy, xây kiên cố, kết cấu chặt chẽ, với quy mô lớn. Binh lực bố trí hợp lý, canh giữ trên phòng tuyến, còn đại quân thì để ở phía sau do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đóng tại các điểm trọng yếu, để cơ động chi viện cho các hướng và thực hành phản kích.
Lực lượng của ta có khoảng 6 vạn quân, chia thành 2 khối bộ binh và thuỷ binh. Lý Thường Kiệt chỉ huy khối bộ binh khoảng 4 vạn người bố trí trên Sông Như Nguyệt, có chiều sâu đến Tiên Sơn, Từ sơn và Kinh đô Thăng Long. Khối thuỷ binh khoảng 2 vạn và hơn 400 chiến thuyền do hai Hoàng tử Hoàng Chấn và Chiêu Văn chỉ huy, bố trí tại Vạn Lý (Phả Lại ngày nay). Chỉ huy chung ở vùng Đông Kênh là thuỷ sư đô đốc Lý Kế Nguyên. Khối thuỷ binh sẵn sàng cơ động ra Sông Đông Kênh tăng cường cho Lý Kế Nguyên khi cần. Nhiệm vụ chủ yếu của lực tượng chiến lược bố trí ô khu vực này là khi địch đã bị chặn đứng ở phòng tuyến, buộc phải bị động chuyển sang phòng ngự thì với lực lượng chiến lược này sẽ cho phép ta nhanh chóng chuyển sang phản công tiến công vào phía sườn, tiêu diệt toàn bộ quân địch, giành thắng lợi quyết định của chiến tranh. Đây là cách đánh chiến lược ''Kiên thủ chờ suy - hoàn kích'' của Lý Thường Kiệt.
Tháng 10 năm 1076, nhà Tống đã điều động được 30 vạn quân đến biên giới Trung - Việt, trong đó có khoảng 10 vạn quân chiến đấu, 20 vạn quân tải lương chủ yếu theo đường thuỷ, Quách Quỳ làm thống soái. Đại quân tiến theo đường Lạng Sơn xuống Thăng Long, thuỷ quân theo ven biển vào Sông Bạch Đằng, dự định sau khi đánh tan quân thuỷ bộ của Đại Việt sẽ hội quân, vượt sông chiếm Thăng Long.
Cuối tháng 11 năm 1076, chiến sự bắt đầu trên khu vực biên giới. Quách Quỳ cho một đạo quân đánh chiếm Quảng Nguyên và chiếm được vào sau khi mua chuộc, ly gián lôi kéo được Lưu Kỷ, người chỉ huy của ta ở khu vực này. Ngày 11 tháng Chạp đại quân Tống tiến vào Lạng Sơn bằng nhiều cánh, chiếm các Châu Ôn, Quyết Lý, Quang Lang, Tô Mậu,… Đại quân Quách Quỳ đánh thọc giữa 2 đạo quân của ta, đi tắt vượt qua dãy núi Bắc Sơn, tiến đến Sông Phú Lương (khúc Sông Cầu thuộc phần đất Thái Nguyên ngày nay). Đồng thời Quách Quỳ cho một bộ phận khác vòng đánh vào sau lưng Thân Cảnh Phúc ở Quyết Lý và Giáp Khẩu (tức Châu Ôn và Chi Lăng). Phò mã Thân Cảnh Phúc một mặt giữ bộ phận chủ yếu của mình để liên hệ hiệp đồng với thuỷ binh, bộ phận còn lại phân tán vào vùng núi rừng hiểm trở đánh tỉa, đánh úp, đánh lén, đánh phục các toán quân nhỏ, nhất là đánh vào các đoàn tải lương.
Sau một tháng tác chiến trên vùng biên giới, ngày 21 tháng Chạp (18-1-1077) đại quân Tống tiến đến bờ Bắc Sông Cầu. Cánh phải do Miêu Lý chỉ huy tập trung trên đoạn bến Như Nguyệt, cánh trái do Quách Quỳ chỉ huy đóng ở Thị Cầu. Trên biển, thuỷ binh Tống bị ta đánh bại phải rút về Cửa Đông Kênh (có thể là Tiên Yên ngày nay) cho đến hết chiến tranh.
Cuối tháng Chạp, Miêu Lý cho bắc cầu nổi tổ chức vượt sông tiến công. Một bộ phận đột phá được chiến tuyến, tiến sâu về Thăng Long. Kỵ binh đi trước của giặc đến cách Thăng Long khoảng 15 dặm thì bị quân ta từ Thiên Đức cơ động ra bao vây, tiêu diệt. Còn Quách Quỳ chờ mãi không thấy thuỷ binh đến, đành phải cho đóng bè đánh qua sông. Tại đây đã diễn ra những trận chiến đấu ác liệt, quyết định số phận quân viễn chinh Tống. Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đánh thắng hai lần vượt sông tiến công của quân Tống. Địch mệt mỏi, căng thẳng, thế suy, lực giảm, lâm vào tình trạng khốn quẫn, tiến thoái đều khó, tinh thần hoang mang, chủ tướng Quách Quỳ phải ra lệnh: ''Ai bàn đánh sẽ chém”. Đến lúc này Lý Thường Kiệt nhanh chóng nắm thời cơ có lợi, chuyển sang phản công chiến lược.
Phòng tuyến Sông Cầu đã giam hãm bộ binh và kỵ binh địch, đẩy chúng vào tình thế khó khăn, thiếu lương thực còn ở phía sau lưng thì luôn bị quân dân địa phương của ta quấy rối, đánh tiêu hao, thuỷ binh lại không đến được. Đại quân địch trên tuyến Sông Cầu bị phá đã làm chuyển sang thế thủ. Lý Thường Kiệt cho chủ lực vượt sông đánh úp đạt bản doanh, nơi đầu não chỉ huy của địch, tiêu diệt đến năm, sáu phần mười quân Tống. Đòn phản công này có ý nghĩa quyết định của mặt trận và đối với toàn bộ cuộc chiến tranh.
Chiến thắng to lớn trên Sông Như Nguyệt thuộc hệ thống phòng tuyến Sông Cầu vào mùa Xuân 1077 đã đưa cuộc kháng chiến của ta đến thành công hoàn toàn. Chỉ sau 3 tháng tác chiến, 30 vạn quân Tống bị tiêu diệt đến quá nửa, số còn lại thì bị bệnh tật, ốm yếu, toàn bộ đội quân xâm lược không còn sức chiến đấu nữa.
Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt chủ động đặt vấn đề điều đình, sớm chấm dứt chiến tranh trong điều kiện có lợi cho dân tộc, để ''không nhọc tướng ta, khỏi tốn xương máu mà vẫn bảo toàn được tôn miếu”. Tháng 3 năm 1077, quân Tống thua chạy hỗn loạn, ta nhanh chóng thu hồi lại toàn bộ đất đai, riêng Châu Quảng Uyên (Cao Bằng) đến năm 1079 nhà Tống mới chịu trả nốt cho ta.
Cuộc kháng chiến chống Tống kết thúc với thắng lợi hoàn toàn về phía dân tộc ta. Độc lập chủ quyền Đại Việt được giữ vững. Mộng tưởng của nhà Tống xâm lược nước ta đến đây hoàn toàn bị tiêu tan. Từ đó về sau, trong khoảng 200 răm, nhà Tống không dám đụng chạm đến đất nước ta. Năm 1164, nhà Tống thừa nhận Đại Việt là một nước riêng biệt.
Tư tưởng tích cực, chủ động tiến công là tư tưởng chiến lược của Lý Thường Kiệt được xuyên suốt từ trong kế sách giữ nước nói chung cho đến tác chiến cụ thể và cả trong đấu tranh ngoại giao. Nhờ thắng chiến công oanh liệt và hoạt động ngoại giao khôn khéo, ta đã thu hồi toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao địa vị quốc gia.
Vào lúc cuộc kháng chiến gay go nhất, Lý Thường Kiệt cho đọc bài thơ ''Thần'' bất hủ để khích lệ sĩ khí, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của nhân dân ta.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà ngịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Bài thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Bài thơ cũng cảnh cáo nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Bài thơ ''Thần'' đã đi vào lịch sử dân tộc ta với tư cách là một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta.
Sau chiến thẳng, Lý Thường Kiệt lo công việc nội trị, ông cho tu bổ đê điều, đường sá, sửa đổi bộ máy hành chính trong cả nước. Vua Lý nhận ông làm em nuôi và cử ông trông nom Châu Ái. Vào những năm cuối đời, ông còn cầm quân đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu (năm 1103), dẹp quân Chiêm quấy nhiễu ở Bố Chính (năm 1104). Trong công việc tổ chức lại bộ máy quân sự và tổ chức quân đội, ông đã duyệt đổi các đơn vị từ cấm binh đến dân binh. Với công lao hiển hách, Lý Thường Kiệt được cả triều đình Lý quý trọng. Ngay lúc ông còn sống, Lý Nhân Tông đã cho làm bài hát tán dương công trạng của ông. Ông được lịch sử ta ghi nhận là một anh hùng kiệt xuất, một con người đã hiến dâng cả tâm hồn, trí tuệ, sức lực cho sự nghiệp độc lập của Tổ quốc Việt Nam ở những buổi đầu của thời tự chủ.
Tài năng quân sự kiệt xuất của ông đã làm kẻ thù phải khiếp phục. Theo Lê Quý Đôn, chính sử Tống phải thừa nhận: binh pháp ''đánh đâu thắng đấy” của thà Lý đã được Sái Diên Khánh nhà Tống mô phỏng và được Tống Thần Tông ''cho là phải”.
Về nghệ thuật quân sự và sức mạnh của quân Đại Việt thiện chiến thời Lý được Trần Hưng Đạo nói rõ với Vua Trần: ''Quân ta đã chủ động phá, chuẩn bị đánh sâu vào đất địch trên mấy trăm dặm để tranh thủ thời gian chuẩn bị phòng thủ đất nước, và với thế mạnh ấy mà ta đã kiên trì phòng ngự làm địch suy yếu rồi chuyển sang tiến công trên một thế trận có chuẩn bị mọi mặt để phá tan quân xâm lược trong chỉ gần 3 tháng trời kể từ lúc địch đưa đại quân vượt biên giới đánh vào nước ta”.
Nghệ thuật quân sự đánh thắng Tống của nhà Lý mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng chủ động tiến công đã đóng góp vào sự phát triển của nền khoa học quân sự Việt Nam với nhiều giá trị thực tiễn. Đây là một đóng góp vô giá vào kho tàng khoa học quân sự trong những buổi đầu và suốt thời kỳ giữ nước của dân tộc.
Năm Ất Dậu 1105, Lý Thường Kiệt mất, ông hưởng thọ 86 tuổi, được truy tặng Kiểm hiệu Thái Uý Việt Quốc Công.
ĐẠI TÁ QUÁCH HẢI LƯỢNG
Vài lời bình:
Không biết Ngô Tuấn - Lý Thường Kiệt có phải là dòng dõi của Ngô Quyền - vị tổ trung hưng của nước Đại Việt độc lập hay không, song có thể nói việc Ngô Tuấn gặp Lý Nhân Tông là một cơ duyên cho cả hai nhân vật lịch sử này, mà cũng là cơ duyên cho non sông Đại Việt.
Nhiều sử gia vẫn thắc mắc, không biết có phải hay không Lý Thường Kiệt thực sự là tác giả của bài thơ “Thần'' nổi tiếng - bài thơ không chỉ nâng cao sỹ khí của quân dân trên phòng tuyến Sông Cầu mà còn làm nức lòng muôn đời con dân Đại Việt. Vấn đề là phải phân đinh rạch ròi ai là tác giả bài thơ. Trong thời đại ''sở hữu trí tuệ ngày nay, thắc mắc ấy là dễ hiểu. Không có giấy trắng mực đen nào thì biết tin vào đâu? Song, trong điều kiện truyền miệng như thế, làm sao biết tác giả là ai? Bài thơ được cho là nói lên ý trời. Nhưng ý dân là trời, lẽ ấy người đời ai không hiểu.
Có điểu chắc chắn là bài thơ chỉ có thể do con người, hơn nữa chỉ do con người Đại Việt, có lòng nồng nàn yêu nước, có lòng tin sâu sắc vào chiến thắng tất yếu của quân dân Đại Việt mới có thể làm nên một bài thơ đầy hào khí như thế. Và dù có phải là tác giả hay không, chắc chắn tên tuổi Lý Thường Kiệt vẫn mãi mãi gắn với “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, như là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên được ghi vào sử sách của nước Việt Nam.