Tài liệu: Ngô Quyền (899 - 944)

Tài liệu
Ngô Quyền (899 - 944)

Nội dung

NGÔ QUYỀN (899 - 944)

 

Ngô Quyền, một danh tướng mưu tài, chỉ huy đánh giỏi, người Đường Lâm, Phúc Lộc, Châu Giao (nay là Xã Đường Lâm, Huyện Ba Vì, Hà Tây), cùng quê với Phùng Hưng. Ông họ Ngô, huý là Quyền, đời đời là dòng dõi quý tộc, là một hào trưởng đất Đường Lâm, con của Ngô Mân ở Châu Mục, Châu Giao. Lấy tên là Quyền do khi mới sinh ra được đoán sau này sẽ có thể làm chủ một phương. Ông là con rể của Dương Diên Nghệ (chủ tướng của Ngô Quyền), vợ ông là Dương Thị Như Ngọc. Ông đã cùng bố vợ đánh tan quân Nam Hán lần thứ nhất (930-931) rồi được uỷ quyền trông coi Châu Ái (Thanh Hoá ngày nay), đem hết tài lực ra xây dựng đưa lại yên vui cho dân trong hạt.

Ngô Quyền có sức khoẻ, chí lớn, mưu sâu, mẹo giỏi, là người lãnh đạo kháng chiến, đồng thời là người chỉ huy trực tiếp cuộc chiến đấu chống quân Nam Hán lần thứ hai. Ông lãnh đạo, chỉ huy quân dân chiến đấu anh dũng, đánh bại quân Nam Hán, tiêu diệt gần hết quân xâm lược bằng một trận quyết chiến chiến lược, làm nên chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất.

Nhìn lại lịch sử nước Việt ta ở các thời kỳ trước đó để thấy rõ tầm quan trọng của chiến thắng to lớn này. Trong gần 12 Thế kỷ, từ Thế kỷ II Tr.CN đến Thế kỷ X, dân tộc ta đã nổi dậy hàng trăm lần đấu tranh lật đổ ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhằm giành quyền độc lập tự chủ cho đất nước mình. Năm 40, Thế kỷ I, Hai Bà Trưng lãnh đạo cuộc nổi dậy lấy được 65 tỉnh thành, giành quyền tự chủ trong 3 năm. Tiếp đó là các cuộc nổi dậy của Chu Đạt (năm 160), Lương Long (năm 178) và cuộc nổi dậy năm 218 dưới sự lãnh đạo của Bà Triệu. Đến năm 541, Lý Bôn lãnh đạo cuộc nổi dậy lật đổ ách thống trị của nhà Lương, khôi phục độc lập chủ quyền dân tộc, lập nên nhà nước Vạn Xuân. Ba năm sau, quân nhà Lương trở lại xâm lược. Sau các chống trả quyết liệt, Lý Bôn lui quân về Khuất Lão (Hưng Hoá, thuộc Vĩnh Phú ngày nay), và trao quyền chỉ huy quân sự cho Triệu Quang Phục. Trong nhiều năm, Triệu Quang Phục dựa vào địa thế Đầm Dạ Trạch (thuộc Hải Dương ngày nay), bền bỉ đánh du kích, làm suy yếu địch, cuối cùng tiến lên đánh bại quân xâm lược, lấy lại được Thành Long Biên, giải phóng đất nước. Nhà nước Vạn Xuân tồn tại đến năm 602 thì bị quân nhà Tùy xâm lược thôn tính.

Năm 722, Mai Thúc Loan liên minh với Lâm ấp, Chân Lạp đánh đuổi được bọn thống trị nhà Đường, nhưng sau quân Đường tăng viện nên Mai Thúc Loan bị bại. Năm 791, có cuộc nổi dậy của Phùng Hưng. Cùng lúc đó, nhân dân Tây Bắc cũng quật cường đứng lên đánh giặc. Nhân dân Thái có các lãnh tụ Lý Tự Tiên và Dương Thanh lãnh đạo cuộc nổi dậy. Năm 905, đầu Thế kỷ X nhằm lúc chính quyền thống trị  đang bị suy yếu nghiêm trọng, Khúc Thừa Dụ đứng lên lãnh đạo nhân dân lật đổ chính quyền đô hộ, tiến quân chiếm được Thành Tống Bình (thuộc miền Hà Nội ngày nay), quét sạch quân xâm lược Đường, mở đầu thời kỳ độc lập của dân tộc.

Năm 930, quân xâm lược Nam Hán xâm chiếm nước ta, đánh vào tận Châu Hoan, vượt Hoành Sơn vào đánh phá Chăm Pa, đặt quyền cai trị và cắt đặt thứ sử Giao Châu. Cuối năm 931, Dương Diên Nghệ lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng quét sạch quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập và chủ quyền dân tộc. Năm 937, thuộc tướng Kiều Công Tiễn giết hại chủ tướng Dương Diên Nghệ để đoạt chức Tiết độ Sứ. Nhân lúc ta rối loạn nội bộ, nhà Nam Hán lăm le ngoài bờ cõi chuẩn bị xâm lược ta. Năm 938, Vua Lưu Cung nhà Nam Hán mượn cớ sang giúp Kiều Công Tiễn, nhanh chóng thực hiện kế hoạch xâm lược lược ta. Y giao cho con trai là Vạn Vượng Hoằng Tháo, đầu tiên phong làm Tĩnh Hải Vương Quân Tiết độ sứ, sau đổi lại phong làm Giao Vương, mang thuỷ quân sang đánh nước ta.

Trước hành vi phản nghịch của Kiều Công Tiễn và mối đe doạ trực tiếp của nạn ngoại xâm, Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, phất cao ngọn cờ yêu nước trừ nội phản, diệt ngoại xâm. Hào trưởng khắp nơi đem lực lượng về với Ngô Quyền.

Phải diệt trừ nội phản, giữ yên bên trong trước, đầu mùa Đông năm 938, Ngô Quyền chỉ huy quân đội vượt Đào Ba Dội, tiến vào Thành Đại La, giết tên phản bội Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn ở cổng thành. Diệt xong nội phản, Ngô Quyền rảnh tay, chuẩn bị đối phó chống quân ngoại xâm.

Ngô Quyền đặt một kế hoạch tác chiến thông minh tài tình, lập trận địa cọc tại khúc sông hiểm yếu, khéo léo lợi dụng con nước triều lên xuống nhử địch vào đúng khu vực trận địa, rồi phản công quyết liệt, tiêu diệt gần hết quân địch. Trận quyết chiến diễn ra vào Tháng 12 năm Mậu Tuất (938). Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền là ''võ công cao cả vang dội đến ngàn thu" (Ngô Thời Sĩ - Việt sử thông giám cương mục), chỉ bằng một đòn quyết chiến chiến lược giải quyết thắng lợi cuộc chiến tranh.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã khẳng định sự tồn tại vững chắc của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài và phát triển rực rỡ của đất nước trong gần 5 Thế kỷ, từ Thế kỷ X đến Thế kỷ XV qua các triều đại Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, hậu Lê. Thắng lợi Bạch Đằng đem lại cho dân tộc ta quyền làm chủ đất nước và làm chủ vận mệnh mình.

Ngô Quyền là một vị tướng tài, làm nổi bật nghệ thuật quân sự Việt Nam ở thời mới dựng nước. Ông có công giữ được sự ổn định bên trong, diệt được giặc ngoài. Ngay khi quân xâm lược Nam Hán còn đang ngấp nghé ngoài bờ cõi, Ngô Quyền đã thực hiện quyết tâm chiến lược, mau lẹ diệt trừ nội phản, giải quyết vấn đề ổn định tình hình đất nước, rồi gấp rút tập trung cố gắng tổ chức chuẩn bị kháng chiến.

Nghệ thuật quân sự của Ngô Quyền rất tài tình ở chỗ, ông đã dùng: ''Quân mới hợp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo mở nước, xưng Vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy'' (Lê Văn Hưu).

Nghệ thuật quân sự của Ngô Quyền thể hiện đặc sắc trong trận đánh kết hợp thế trận của trận địa cọc với lợi thế nước triều, giải quyết thắng lợi bằng một đòn thuỷ chiến. Nghệ thuật quân sự đó còn thể hiện sự đánh giá, phán đoán chính xác tình hình địch, bày thế trận, dùng mưu nghi binh, trực tiếp chỉ huy trận đánh để thực hiện đúng ý định và quyết lâm của một vị tướng tổng chỉ huy.

Trước khi vào trận đánh, Ngô Quyền đã nói với các tướng sỹ rằng: ''Hoằng Tháo đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân tướng mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn chết, không có người làm nội ứng đã mất vía rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế thua được chưa biết ra sao”.

Ông bày thế trận có mưu cao, tính toán chu đáo, ông nói: ''Nếu sai người đem cọc vạt nhọn, đầu bịt sắt đóng ngầm dưới biển, thuyền bọn chúng theo nước thuỷ triều lên vào hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát. . . ''

Ngô Quyền đã hạ quyết tâm chọn cách đánh thuỷ chiến, tổ chức trận quyết chiến chiến lược để tiêu diệt toàn bộ quân xâm lược. Trước hết ông nắm vững đường tiến quân của địch từ biển vào, huy động quân và dân lập trận địa cọc, cắm đầy cọc bịt sắt ở nơi hiểm yếu tại cửa Sông Bạch Đằng làm thành một trận địa ngầm, bố trí quân mai phục ở bên trong, sẵn sàng chờ giặc.

Khi địch ngấp nghé ngoài cửa sông, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra dụ địch vào sâu thế trận lúc nước triều đang lên, khi nước triều xuống ông chỉ huy phản công quyết liệt buộc địch phải rút chạy ra cửa biển và bị đâm vào cọc ngầm. Kết quả trận đánh quân địch thương vong quá nửa, hoàn toàn tan rã. Trận quyết chiến diễn ra trong gần một ngày, vào thời gian một lần nước triều lên xuống. Vua Nam Hán đem quân đi tiếp viện, nửa đường nghe tin Hoẵng Tháo đã thua và chết trận, đành lui quân, không dám tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược nữa. Ý chí xâm lược của Nam Hán bị đè bẹp.

Tài quân sự của Ngô Quyền đã đặt nền móng hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nó thể hiện ở cách dùng binh (quân của Ngô Quyền có đặc điểm là những người lính chưa kịp huấn luyện thật chu đáo), ở cách vận dụng sức mạnh của nhân dân, giỏi lợi dụng thế thiên hiểm của địa lý, thuỷ văn, dùng mưu trí chỉ huy trận đánh, còn thể hiện ở chỗ nắm tình hình địch và đánh giá địch chính xác.

Chiến thắng Bạch Đằng chứng tỏ sức mạnh của nhân dân ta về trí tuệ và khả năng đánh bại địch bằng cả dân binh lẫn quân chính quy, cả chiến đấu trên bộ lẫn thuỷ chiến.

Sau chiến thắng. Ngô Quyền chăm lo xây dựng đất nước. Mùa Xuân năm 939, ông quyết định từ bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc, tự xưng vương. Cổ Loa, Kinh đô cũ của Âu Lạc – An Dương Vương được ông chọn là Kinh đô nước ta, lập ra một vương quốc độc lập vào Thế kỷ X. Đây là một việc làm có ý nghĩa nêu cao truyền thống dựng nước và giữ lược lâu đời của dân tộc ta, biểu thị ý chí quyết giữ vững nên độc lập vừa mới giành được sau hơn 10 Thế kỷ đấu tranh bền bỉ chống xâm lược và ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa. Ngô Quyền đặt ra các chức quan văn võ, quy định các lễ nghi trong triều và màu sắc đồ mặc của các quan lại các cấp Triều đình Ngô Quyền xây dựng theo thể chế của một vương triều hoàn toàn độc lập, bộ máy chính quyền mang tính tập quyền.

Ông mất năm Giáp Thìn (944) hưởng dương 45 tuổi trị vì đất nước được 5 năm.

Sử thần Ngô Sỹ Liên nói: "Tiền Ngô (Vương) nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy quy mô của bậc đế vương. Nhưng hưởng nước không được lâu, chưa thấy hiệu quả trị bình. Đáng tiếc thay!"

ĐẠI TÁ QUÁCH HẢI LƯỢNG




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/141-02-633384936260966250/Nhung-vi-Tuong-noi-tieng-The-gioi/Ngo-Quye...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận