Tài liệu: Nguyễn Huệ (Quý Dậu, 1753 - Nhâm Tuất, 1792)

Tài liệu
Nguyễn Huệ (Quý Dậu, 1753 - Nhâm Tuất, 1792)

Nội dung

NGUYỄN HUỆ (QUÝ DẬU, 1753 – NHÂM TUẤT, 1792)

 

Nguyễn Huệ - Quang Trung, người anh hùng dân tộc và là nhà lãnh tụ kiệt xuất của nông dân, một danh tướng, nhà quán sự thiên tài, một nhà chính trị giỏi, Hoàng đế của Việt Nam ở nửa đầu Thế kỷ XVIII. Cha của ông là Hồ Phi Phúc, mẹ là Nguyễn Thị Đồng. Nguyễn Huệ lúc nhỏ gọi là Ba Thơm (Hồ Thơm), trước khởi nghĩa Tây Sơn, nhân dân vẫn gọi là “chú Ba Thơm”, Sau lấy họ Nguyễn, tên là Huệ - Nguyễn Huệ. Các sử sách đời Nguyễn đều viết là Nguyễn Huệ còn có tên là Nguyễn Văn Bình, hoặc Nguyễn Quang Bình. Sau này các con đều mang họ là đệm là Nguyễn Quang, như Nguyễn Quang Thuỳ, Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Bân. Ông là người gốc Hưng Nguyê,n Tỉnh Nghệ An. Từ giữa Thế kỷ XVII, quân Nguyễn vượt Sông Gianh vào chiếm 7 huyện đất Nghệ An, khi triệt thoái khỏi nơi đây đi vào Nam đã đem theo nhiều tù binh và số nông dân bắt được trong chiến tranh. Tổ tiên Nguyễn Huệ cùng với số nông dân đó bị phát tán lên Cao Nguyên, ở nơi đây lấy tên là ấp Tây Sơn (nay thuộc Huyện An Khê, Tỉnh Gia Lai, Kon Tum). Đây là quê hương đầu tiên của Nguyễn Huệ ở đất Đàng Trong. Đến sau, ông Hồ Phi Phúc lại lập cư ở Thôn Kiên Mỹ thuộc ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là đất của xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Nghĩa Bình). Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một làng bên bờ Sông Côn, sau này ở đây có Bền Trầu. Đất Quy Nhơn là cái nôi của khởi nghĩa Tây Sơn.

Nguyễn Huệ có 3 anh em cùng theo học ông giáo Hiến, một người thầy có tư tưởng chống lại Trương Phúc Loan và đã vào Phủ Quy Nhơn dạy học, tại đất An Thái, thầy giáo Hiến mang hoài bão, ý chí của mình để truyền lại cho lớp môn sinh. Ông phát hiện tài năng khác thường của mấy anh em Tây Sơn, nên đem hết lòng dạy dỗ, muốn để mưu việc lớn về sau.

Ông nói với mấy anh em Nguyễn Huệ: “…Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở Bắc Hà… Các con nên đổi thành họ Nguyễn để có danh nghĩa lập công”. Từ đó, anh em Tây Sơn đổi từ họ Hồ thành họ Nguyễn. ''Người áo vải Tây Sơn, do Nguyễn Huệ khiêm tốn, chân thực tự nhận trong chiếu lên ngôi vua, nhưng thực sự là người áo vải có học.

Năm Tân Mão, 1771, ba anh em Tây Sơn lập đồn trại ở rừng núi trong vùng, chiêu tập nghĩa quân chống lại triều đình phong kiến do quyền thần Trương Phúc Loan tác quái. Lực lượng nghĩa quân ngày càng mạnh, đánh chiếm Phủ Quy Nhơn rồi tiến ra chiếm phủ thành Quảng Ngãi. Năm 1774, ba vạn quân Trịnh vượt Sông Gianh tấn công Chúa Nguyễn. Quân Nguyễn thua chạy vào Quảng Nam rồi vượt biển rút vào vùng đất Gia Định. Đến năm 1775, quân Trịnh đánh tới vùng quân Tây Sơn kiểm soát. Lúc này quân Tây Sơn rơi vào thế bất lợi, phía Bắc quân Trịnh đang đánh đến, phía Nam quân Nguyễn phản cộng, chiếm lại vùng đất từ Bình Thuận vào đến Phú Yên. Trước tình hình rất hiểm nghèo như vậy, Tây Sơn chủ trương hoà hoãn với Trịnh để tập trung diệt Nguyễn. Năm 1776 đến năm 1783, quăn Tây Sơn tấn công Gia Định. Quân Nguyễn sau 5 lần thất bại, bị bật ra khỏi đất liền, số còn sống sót chạy ra hải đảo. Sau này, quân Nguyễn cố quay về Gia Định, nhưng lại bị đánh bật sang Xiêm.

Nguyễn Huệ là người trực tiếp chỉ huy các trận đánh ở Bình Thuận và tiêu diệt đạo quân Chúa Nguyễn ở đó. Năm 1762, ông lại cùng Nguyễn Nhạc chỉ huy đánh Nguyễn Ánh. Ánh phải bỏ Sài Gòn chạy ra Côn Đảo. Tháng 6 - 1783, Nguyễn Huệ đem quân ra vây Đảo Phú Quốc. Ở các thời đại trước, quân xâm lược nước ngoài chủ yếu là lực lượng bành trướng phương Bắc. Còn trong đầu Thế kỷ XVIII tình hình đất nước ta vô cùng phức tạp, chế độ phong kiến suy vong nghiêm trọng, đất nước bí chia làm 2 miền, Đàng Ngoài có Vua Lê -  Chúa Trịnh thống trị, còn Đàng Trong thì Chúa Nguyễn cát cứ. Các tập đoàn phong kiến ở mọi miền ngày càng sa đoạ, đàn áp bóc lột nhân dân vô cùng tàn khốc. Nhân dân vô cùng khổ cực, Đàng Ngoài ''dân nghèo mảnh đấtt cắm dùi không có'' (Lê Cao Lãng - Lịch triều tạp kỷ). … ''dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. . . Nhân dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nỗi phải ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau, số dân còn lại mười phần không được một'' (Việt sử thông giám cương mục). Còn Đàng Trong tình hình cũng vô cùng nghiêm trọng, vua chúa, quan lại sống xa hoa, dâm dật, bọn thống trị phong kiến ra sức bóc lột, đặt ra mọi thứ thuế nặng nề. Người nông dân sống dở, chết dở, không thể không vùng dậy.

Tình hình đất nước chia rẽ không thống nhất, chế độ phong kiến suy đồi, nhân dân khổ cực, còn mối đe doạ xâm lược từ bên ngoài lại đến từ nhiều phương, nhiều hướng, ở Thế kỷ XVIII này, các thế lực phương Tây đã tràn sang Châu Á và có mưu đồ đánh cướp nước ta. Chưa bao giờ nước ta lại rối ren cực độ, có nhiều mối đe doạ giặc ngoài xâm lược đến như thời kỳ này. Lúc này, sứ mạng lịch sử của dân tộc ta là phải bảo vệ được nền độc lập, thống nhất đất nước, phải làm cho dân đỡ khổ, phải tạo được sức mạnh để chống ngoại xâm. Tình thế này đòi hỏi phải có một phong trào cứu nước lớn mạnh, phải tập dựng được đông đảo lực tượng nhân dân, những người yêu nước trong các tầng lớp nhân dân để chiến đấu cho lợi ích sống còn của đất nước.

Trong tình hình như vậy, Nguyễn Huệ nổi bật lên là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông là biểu hiện sự tập trung nhiều sứ mệnh lịch sử của đương thời. Ông đã thể hiện tài năng xuất sắc trên nhiều mặt. Ông chỉ huy đánh nhiều trận, đánh nhiều loại kẻ thù.

Tác chiến với quân nhà Nguyễn có lực lượng quân sự phương Tây.

Vào đầu năm 1781, Nguyễn Ánh đã có tới 3 vạn quân thuỷ bộ, hơn 470 thuyền chiến các loại, hai tàu chiến kiểu Châu Âu và ba tàu chiến Bồ Đào Nha. Trong quân đội Nguyễn Ánh có một số binh sĩ Pháp do cố đạo Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) tuyển chọn từ các thuộc địa Pháp. Một võ quan Pháp là Manuel, chỉ huy tàu chiến Pháp và một tàu Bồ Đào Nha.

Tháng 5 năm Tân Sửu (1781) Nguyễn Ánh cất quân tiến đánh Tây Sơn tại Bình Khang (Khánh Hoà ngày nay, cách Nha Trang 11 km) bằng cả bộ binh và thuỷ binh. Quân Tây Sơn đã không chờ đợi, mở ngay cuộc tiến công trước bằng tượng binh hết sức mạnh mẽ dồn dập, buộc các tướng nhà Nguyễn là Tôn Thất Dụ và Châu Văn Tiếp phải rút lui về Bình Thuận và Núi Chè Sang (căn cứ cũ ở Núi Phú Yên).

Sau thắng lợi Bình Khang, quân Tây Sơn không để Nguyễn Ánh dừng chân ở Gia Định chuẩn bị phát triển. Tháng Ba năm Nhâm Dần (1782), hai đạo quân do Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy đã từ Quy Nhơn cùng thuỷ quân tiến thẳng vào Cần Giờ. Tướng Tống Phúc Thiêm nhà Nguyễn đưa thuỷ quân ra nghênh chiến. Lúc này, thuỷ quân Nguyễn đã có hàng 400 thuyền chiến và một tàu chiến Bồ Đào Nha do Manuel làm thuyền trưởng. Thuỷ quân Nguyễn triển khai thành đội hình hàng ngang tại Thất Kỳ Giang (Ngã Bảy) với ý đồ chặn đánh và tiêu diệt quân Tây Sơn tại đây. Lực lượng của Nguyễn Huệ chỉ bằng nửa thuỷ quân của Nguyễn Ánh.

Thuyền chiến Nguyễn bắn dữ dội, thuỷ quân Tây Sơn thuận chiều gió tiến lên ào ạt, đánh phá rất mạnh. Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy trận đánh, thúc thuỷ quân Tây Sơn tiến sát và tung hoả công đánh phá mãnh liệt (Giáo sĩ Pháp ở Việt Nam hồi Thế kỷ XVIII thuật lại: "Vũ khí đánh hoả công là một thứ tên lửa - fusée, to bằng cánh tay, lửa của nó cháy rất mạnh, gặp nước cháy càng dữ, có thể đốt cháy mọi tàu thuyền. Nó chỉ có thể được dập tắt ở trên mặt đất”). Trước sức mạnh của quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài giỏi của Nguyễn Huệ, thuỷ quân Nguyễn phải lùi dần. Thuỷ quân Tây Sơn bám sát rất chặt, phát huy hoả lực bắn phá mạnh mẽ. Tàu chiến Bồ Đào Nha do Manuel chỉ huy có mười đại bác, trước sức lấn công mãnh liệt của các thuyền chiến Tây Sơn đã bị hãm trong vòng vây, kết quả bị đốt cháy và chìm, Manuel chết tại trận.

Tiếp đó, các thuyền chiến nhỏ của Nguyễn Huệ đuổi đánh quân Nguyễn Ánh trên khắp các ngả sông. Lúc Nguyễn ánh vừa đem quân vào đóng ở ngã tư, thì đã thấy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy xuất hiện ngay tại đó. Sau cuộc tiến công mãnh liệt, thuỷ chiến mau chóng kết thúc, thuỷ quân Nguyễn ánh bị đánh tan.  

Thuỷ quân Nguyễn Huệ đuổi đánh xuống tới tận miền Hậu Giang. Cùng lúc đó, bộ binh Tây Sơn do tướng Nguyễn Văn Kim chỉ huy đã tiến đánh Biên Hoà. Cả hai cánh quân thuỷ bộ của Nguyễn Ánh ở đây đều bị đại bại.

Với các thắng lợi trên, quân Tây Sơn hoàn toàn kiểm soát vùng Gia Định. Các cuộc truy kích diễn ra khắp nơi, quân Tây Sơn đã không thể cho quân nhà Nguyễn dừng lại để chấn chỉnh lực lượng. Những nét nổi bật trong chỉ huy thực hành tác chiến của Nguyễn Huệ là: nắm chắc địch, chủ động tấn công, trong thuỷ chiến dùng lối đánh gần để phát huy lực hoả công, đồng thời hạn chế hỏa lực đại bác của địch, dùng voi tàm xung lực đột kích, tiến hành truy kích liên tục và triệt để, giải quyết vấn đề cơ động lực lượng rất nhanh, vô cùng linh hoạt, giỏi cơ động đường thuỷ.

Đại phá quân Xiêm xâm lược.

Đã từ lâu, tập đoàn phong kiến Xiêm có tham vọng bành trướng sang Chân Lạp và Gia Định. Tháng 3 năm 1784, Nguyễn Ánh dẫn tàn quân sang Xiêm xin cứu viện, mượn cớ này, ngay tháng 4 năm đó, Xiêm mở cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.

Vua Xiêm phái một đạo bộ binh 3 vạn quân qua Chân Lạp tiến đánh miền Nam nước ta, một đạo thuỷ binh 2 vạn quân với 300 thuyền chiến do 2 cháu vua là chiếu Tăng, chiếu Sương (chiếu: 1 chức tước của chế độ phong kiến Xiêm) chỉ huy, tiến thẳng sang bờ biển Gia Định. Tổng số 2 đạo thuỷ bộ quân xâm lược Xiêm tiến đánh nước ta lúc đó là 5 vạn tên. Bên cạnh quân Xiêm còn có tàn quân Nguyễn Ánh do Bình Tây đại đô đốc Châu Văn Tiếp chỉ huy, làm nhiệm vụ dẫn đường cho thuỷ quân Xiêm tiến đánh Gia Định.

Tháng 8 năm 1784, quân Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá, tháng 11 cùng năm tiến đến Cần Thơ, thời gian tiến quân hết 3 tháng, chiếm đồn Ba Sắc (tức Sóc Trăng), Trà Tân rồi tiến tiếp, chiếm Sa Đéc. Chiếm Sóc Trăng và Sa Đéc tương đối dẽ, quân tướng Xiêm kiêu căng, kéo nhau đi tàn sát nhân dân, giết người, cướp của vô cùng tàn bạo. Quân Xiêm đóng tại Trà Tân, cách Mỹ Tho khoảng 30km. Tình hình chiến trường túc này là, Quân Xiêm chiếm được một vùng đất phía Tây Gia Định, vùng phía Đông rộng lớn Gia Điọnh và Mỹ Tho vẫn trong tay quân Tây Sơn. Qua thực tế, Nguyễn Ánh không tin vào quân Xiêm, ông đi cầu viện người Pháp. Bá Đa Lộc nhận làm môi giới cho Nguyễn Ánh yêu cầu Pháp giúp đỡ quân sự. Ngày 27-1 1-1 784 Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh xuống thuyền về Pháp, tháng 2 năm 1785 thì tới Pôngđisêry (Ấn Độ).

Những người chỉ huy quân Tây Sơn lúc đó đang ở Quy Nhơn, vẫn chăm chú theo dõi các hoạt động của quân Xiêm, đồng thời chuẩn bị phản công mạnh mẽ, quyết liệt nhằm quét sạch quân địch ra khỏi Gia Định. Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ chỉ huy quân đội Tây Sơn theo đường thuỷ tiến vào Mỹ Tho, áp sát quân địch. Hàng ngày, ông cho lực lượng nhỏ được trang bị tốt đi chuyển trên các kênh rạch dẫn đến các điểm đóng quân của Xiêm. Nguyễn Huệ lợi dụng mùa mưa, lợi dụng con nước lên để tổ chức các trận đánh nhỏ nhằm buộc địch phải rời khỏi các chiến luỹ kiên cố và tạo cơ hội tiêu diệt chúng. Ông quyết định lôi toàn bộ quân địch ra khỏi Trà Tân tới vùng sông thuận lợi nhất để thực hiện đánh tiêu diệt lớn. Đoạn sông từ Mỹ Tho Rạch Gầm đến Xoài Mút được chọn làm điểm quyết chiến. Tại đây, Nguyễn Huệ bố trí phục binh, và giấu một số lớn quân trong vô số kênh rạch chằng chịt chạy về phía Nam từ các vùng lau lách rậm rạp. Đoạn sông được chọn có lòng sông mở rộng, dễ dồn địch để đánh tiêu diệt, các đội quân được giấu ở các sông rạch nhỏ sẽ phối hợp hiệp đồng tiến ra chặn đầu khoá đuôi địch. Nguyễn Huệ bố trí bộ binh trên cù lao Thới Sơn, thuỷ binh ở phía sau cù lao mai phục trong các rạch nhỏ. Cù lao này chia dòng Sông Mỹ Tho thành hai dòng: Sông Tiền và Sông Hậu. Kế hoạch tác chiến của Nguyễn Huệ là sẽ dùng bộ binh tiến công các thuyền chiến địch khi chúng lọt vào đoạn Sông Tiền, còn thuỷ binh thì theo Sông Hậu đánh thọc vào Sườn địch. Bố trí xong, Nguyễn Huệ cho dàn các thuyền chiến chắn ngang khúc Sông Rạch Gầm - Xoài Mút, cố ý làm như án binh bất động, đánh lừa địch, chờ chúng tới. Quân Xiêm cho rằng, quân Tây Sơn không đủ sức đánh Trà Tân, hiện đang nản chí, chờ để lui quân. Do vậy, chúng bất ngờ đem toàn bộ thuyền chiến theo dòng Sông Mỹ Tho, qua Rạch Gầm-Xoài Mút tiến đánh đại bản doanh Nguyễn Huệ ở Mỹ Tho.

Ngày 8 tháng Chạp năm Giáp Thìn, tức ngày 18 tháng Giêng năm 1785, đúng lúc thuỷ triều đang rút, các thuyền chiến thuận theo chiều nước và gió, ào ạt tiến vào đoạn Sông Rạch Gầm - Xoài Mút. Quân Nguyễn đi trước, quân Xiêm đi sau, đánh vào các thuyền chiến Tây Sơn đang chắn ngay cửa sông. Các thuyền chiến Tây Sơn rút rất nhanh, nhử địch vào sâu khu vực trận địa bố trí sẵn.

Chờ toàn bộ thuyền chiến giặc lọt hết vào khu vực Rạch Gầm – Xoài Mút. Nguyễn Huệ ra lệnh tấn công. Thuỷ binh Tây Sơn hiệp đồng chặt chẽ thực hành giáp công. Các thuyền chiến Tây Sơn từ khu phục kích ở Rạch Gầm -Xoài Mút tiến ra Sông Mỹ Tho chặn đầu khoá đuôi đoàn thuyền chiến giặc. Thuỷ binh Tây Sơn từ phía sau cù lao Thới Sơn đánh thọc vào cạnh sườn đội hình địch. Với cách đánh đó, đã chia cắt, bao vây toàn bộ đội hình thuyền chiến của giặc. Đồng thời lúc này pháo binh Tây Sơn ở 2 bên bờ Sông Mỹ Tho và trên cù lao Thới Sơn tập trung hoả lực bắn phá toàn bộ đội hình thuyền chiến của giặc. Cuộc chiến đấu đã nhanh chóng kết thúc, toàn bộ hơn 300 thuyền chiến bị quân Tây Sơn phá huỷ và đánh đắm, hai vạn thuỷ binh Xiêm bị tiêu diệt gần hết.

Trong đêm 18 tháng Giêng vừa diễn ra trận Rạch Gầm-Xoài Mút, thì ngay canh năm ngày 19 tháng Giêng quân Tây Sơn tấn công quân Xiêm tại Trà Tân. Quân Xiêm khiếp sợ, cố thủ trong doanh trại, quân Tây Sơn đánh phá mãnh liệt các doanh trại quân Xiêm. Một sách cũ đã ghi lại: "Quân Xiêm bị tử trận hay là bị bắt làm tội thì nhiều lắm. Mấy quân trốn khỏi thì ra sức tìm đường lên rừng mà trở về Xiêm. Song cũng không về đặng mấy người, vì khi thất lạc người thì đã phải chết trôi, kẻ thì chết đói kẻ thì nhọc nhằn quá sức đi mà chết dọc đường gần hết”.

Sau trận Rạch Gầm-Xoài Mút và trận Trà Tân: “Người Xiêm sợ quân Tây Sơn như cọp (Đại Nam thực lục).

Quân Tây Sơn truy kích tiếp Nguyễn Ánh (1785). Cùng đường, quân Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm với vài trăm người và 5 thuyền.

Chỉ trong một thời gian ngắn, quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ đã tiêu diệt gọn 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn. Chiến thắng vẻ vang này đã kết thúc giai đoạn chiến tranh đánh đổ Chúa Nguyễn, đặt toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong dưới quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ trong cuộc chiến tranh này đã lên đến một trình độ cao mới về tác chiến hợp đồng thuỷ bộ, đặc biệt ông đã đưa thuỷ binh lên một địa vị cao. Nguyễn Huệ vừa là tướng tài bộ binh vừa là tướng tài thuỷ binh.

Giải quyết xong Đàng Trong, nhưng mục tiêu thống nhất đất nước chưa hoàn thành. Ngoài Bắc, tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh chiếm giữ từ Hải Vân trở ra, tình hình Bắc Hà rối ren cực độ, bọn Chúa Trịnh suy yếu, Vua Lê hoàn toàn là bù nhìn, nhân dân đói khổ, khắp nơi bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Thời cơ tấn công Bắc Hà đã đến. Đầu năm 1786, Nguyễn Huệ đã đề xuất ý kiến tiến đánh Bắc Hà, nhưng đến tháng Tư năm ấy Nguyễn Nhạc mới hạ quyết tâm đánh.

Thống trị lãnh thổ Bắc Hà, chính quyền phong kiến Lê-Trịnh bấy lâu nay đã tổ chức xây dựng được một hệ thống bố phòng quy củ và hoàn chỉnh. Tấn công nó như tấn công một hệ thống phòng thủ quốc gia, có nhiều đặc điểm khác với tác chiến quần nhau với quân chúa Nguyễn Đàng Trong.

Giải quyết nhiệm vụ quân sự tiến công Bắc Hà, một lần nữa lại nổi bật thiên tài quân sự Nguyễn Huệ. Nghệ thuật quân sự lần này thể hiện sắc nét trong tổ chức và thực hành 2 chiến dịch - chiến lược: giải phóng Thuận Hoá và giải phóng Thăng Long. Đây là 2 chiến dịch tiến công, có cách đánh chiến dịch độc đáo.

Giải phóng Thuận Hoá

Từ 1775, sau khi đánh Nguyễn, chiếm Phú Xuân, quân Chúa Trịnh có thêm vùng đất đai rộng lớn. Từ 1776, tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh lục đục, xã hội Bắc Hà rối ren, nhân dân ngày càng cùng khổ. Khắp nơi luôn nổ ra các cuộc khởi nghĩa. Chính quyền phong kiến Bắc Hà đã lung lay tận gốc, nhân dân hoàn toàn đối lập với bọn thống trị.

Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Bắc Hà chính là lúc nạn đói trầm trọng đang lan rộng khắp Bắc Hà. Sử cũ ghi “Tháng Ba, dân bị nạn đói, giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ và tứ trấn bị đói to, thây chết nằm liền nhau.

Thuận Hoá là chiến trường có toàn bộ vùng lãnh thổ Bắc Hà làm hậu phương rộng lớn, an toàn, Nghệ An, Thanh Hoá, Thăng Long đều có thể đến ứng cứu. Quân Trịnh triển khai bố trí, chiếm giữ từ Hải Vân đến Sông Gianh, lực lượng rất hùng hậu, riêng lực lượng địa phương đồn trú đã có vài vạn, đồng thời chúa Trịnh lại điều động thêm 3 vạn quân từ Bắc Hà vào, hệ thống phòng ngự được xây dựng vững chắc từ lâu ngày.

Với binh lực ít hơn quân Trịnh, nhằm đúng đặc điểm của hệ thống bố phòng, Nguyễn Huệ hạ quyết tâm sử dụng thuỷ binh và bộ binh cùng một lúc tiến công các cứ điểm trọng yếu, phá thế phòng thủ khiến quân Trịnh không kịp trở tay và cũng không thể ứng cứu cho nhau được. Thực hiện quyết tâm đó, Nguyễn Huệ tổ chức 3 mũi tiến công, đi theo 3 đường:

- Mũi thứ nhất, do Vũ Văn Nhậm chỉ huy, sử dụng thuỷ binh tiến đánh Phú Xuân.

- Mũi thứ hai, thuỷ binh, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Lữ tiến thẳng đến Sông Gianh. Khi tiến đến đây sẽ chia làm 2 cánh: cánh thứ nhất, án ngữ Sông Gianh, chặn viện binh của Trịnh từ Bắc Hà vào; cánh thứ hai đánh xuống các đồn quân Trịnh ở Bố Chính, Leo Heo, luỹ Đồng Hới và hợp quân với bộ binh từ Phú Xuân đánh ra để cùng đánh Dinh Cát.

- Mũi thứ ba, dùng tất cả bộ binh tập trung đánh Đèo Hải Vân, do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Mũi này có nhiệm vụ đánh xong Hải Vân rồi tiến lên phối hợp với đạo thuỷ binh thứ nhất đánh Thành Phú Xuân. Giải quyết xong Phú Xuân, tiến đánh tiếp Dinh Cát, và nếu cần sẽ tiến đánh lên phía Sông Gianh, chi viện cho đạo thuỷ binh thứ hai, cùng đánh luỹ Đồng Hới và các đồn xung quanh.

Ngày 28 tháng Tư năm Bính Ngọ, tức ngày 25 tháng 5 năm 1786, các đạo thuỷ binh Tây Sơn đã xuất phát, dưới sự chỉ huy chung của Nguyễn Huệ. Trung tuần tháng Năm (Bính Ngọ - 1786), quân chủ lực Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã nhanh chóng lấy xong Đèo Hải Vân và tiến nhanh về Phú Xuân. Cùng lúc này thuỷ binh do Vũ Văn Nhậm chỉ huy cũng đã tiến đến cửa biển gần Thành phố Phú Xuân, sau khi tiêu diệt một tàu chiến Bồ Đào Nha ở đây, rồi theo dòng Sông Huế tiến vào Phú Xuân. Bộ binh Tây Sơn cũng đã kịp đến và đang bao vây thành. Nguyễn Huệ chỉ huy thuỷ bộ binh tấn công mãnh liệt, đặc biệt đã sử dụng pháo trên thuyền chiến nhân lúc nước triều đang dâng lên, đủ tầm bắn, phát huy hoả lực pháo binh rất dữ dội bắn phá Thành Phú Xuân. Trận đánh diễn ra trong một đêm, quân Tây Sơn tiêu diệt hơn 2 vạn quân Trịnh trong thành, chỉ sót có 1 tên lính chạy trốn về Dinh Cát báo tin. Thành Phú Xuân bị hạ trong đêm 25 tháng Năm Binh Ngọ, tức ngày 19 tháng 6 năm 1786.

Trong khi Nguyễn Huệ đánh Thành Phú Xuân thì đạo thuỷ binh của Nguyễn Lữ cũng tiến tới cửa Sông Gianh. Nguyễn Lữ thực hiện đúng kế hoạch đã định, hạ tương đối dễ dàng các đồn luỹ quân Trịnh. Luỹ Đồng Hới, còn gọi là Lũy Thầy là một hệ thống nhiều luỹ kiên cố, nhưng quân Trịnh đã mất tinh thần chiến đấu, luỹ trở thành vô dụng. Ngày 26 tháng 5 năm Bính Ngọ (tức 21-6-1 786) thuỷ binh Tây Sơn tiến vào chiếm giữ luỹ Đồng Hới. Cùng khi Nguyễn Lữ đang hoạt động ở vùng Sông Gianh, một toán bộ binh được lệnh từ Phú Xuân lên đánh chiếm đồn Dinh Cát. Họ tiến vào đồn Dinh Cát ngày 22 thảng 6 năm 1 786 khi đồn đã trống không.

Chưa đầy 10 ngày, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy lài giỏi của Nguyễn Huệ đã giành được thắng lợi rực rỡ, làm chủ cả một vùng rộng lớn, từ Hải Vân ra đến Sông Gianh. Hơn 3 vạn quân cùng toàn thể tướng lĩnh cao cấp của nhà Trịnh tại đây bị tiêu diệt.

Thế là sau 9 năm đánh đòn chiến lược đầu tiên vào Gia Định, và sau hơn một năm giành thắng lợi quyết định diệt quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút, chiến tranh đã bước sang cục diện mới: từ tiến công chiến lược đối với quân Nguyễn và diệt quân ngoại xâm ở miền Nam, làm chủ toàn bộ vùng lãnh thổ Đàng Trong, quân Tây Sơn chuyển sang tiến công chiến lược vào Bắc Hà.

Chiến thắng Phú Xuân là cái mốc đánh dấu chuyển biến chiến lược, chiến trường chính đã chuyển từ Nam ra Bắc. Chiến thắng Phú Xuân chứng tỏ, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn mạnh cả về bộ binh lẫn thuỷ binh, không những giỏi đánh vận động, mà còn giỏi đánh công thành.

Tiến đánh Thăng Long

Sau khi làm chủ hoàn toàn vùng Thuận Hoá, Nguyễn Huệ hạ quyết tâm tiến thẳng ra Bắc Hà, lật đổ nhà Trịnh, lập lại nền thững nhất cho Tổ quốc, hoàn thành trọn vẹn mục tiêu chính trị.

Tài thao lược của Nguyễn Huệ biểu hiện ở chủ trương chiến lược đúng đắn và lựa chọn phương thức tiến công không đơn thuần quân sự. Ông thực hiện chính sách tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân, cô lập quân Trịnh về chính trị, giương cao ngọn cờ ''Phù Lê diệt Trịnh'' tập hợp đông đảo lực lượng chống Trịnh ở Bắc Hà, tăng cường sức mạnh của Tây Sơn. Về quân sự, Nguyễn Huệ dùng cách đánh nhanh, thắng nhanh, chiếm bàn đạp sung yếu sát gần Thăng Long, thu hút đại bộ phận quân địch để tiêu diệt. Vị Hoàng, thủ phủ Trấn Sơn Nam, được Nguyễn Huệ chọn làm mục tiêu tấn công đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp tấn công Thăng Long.

Một kế hoạch chiến dịch tiến công hoàn chỉnh đã được Nguyễn Huệ lập ra: để một lực lượng ở lại cùng Nguyễn Lữ làm nhiệm vụ giữ Thuận Hoá, một lực lượng làm đạo quân tiên phong giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ huy (có 400 thuyền chiến), theo đường biển tiến đánh Vị Hoàng, chủ lực do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy có Vũ Văn Nhậm làm phó tướng có đủ thuỷ, bộ binh (thuỷ binh có hơn 1000 thuyền chiến), và còn có cả tượng binh. Cánh thuỷ binh do Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ huy đã đến Vị Hoàng vào sáng sớm ngày 1 1 tháng 7 năm 1786. Trên đường tiến quân, Nguyễn Hữu Chỉnh theo đúng kế hoạch tác chiến, tổ chức các toán du kích lên bờ đánh phá các đồn trại để dọn đường cho chủ lực tiến lên chiếm đóng. Tới Vị Hoàng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho ''đốt lửa hiệu'' báo cho chủ lực của Nguyễn Huệ ở Thanh Nghệ biết. Đồng thời ông cử một tỳ tướng và một toán quân nhỏ đột nhập Thăng Long truyền hịch kêu gọi nhân dân hưởng ứng. Cũng theo lệnh của Nguyễn Huệ, đạo quân của Nguyễn Hữu Chỉnh sau khi hoàn thành nhiệm vụ nói trêu, không tiếp tục đánh mở rộng, mà đóng lại ở Vị Hoàng, làm công tác đảm bảo lương thực cho toàn bộ thời gian thực hành chiến dịch.

Nhận được thông tin từ Vị Hoàng báo về, quân chủ lực dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ tiến nhanh ra Bắc. Được gió Nam, hơn 1000 thuyền chiến Tây Sơn lướt sóng ''như bay”. Ngày 17 tháng 7 năm 1786, tức 22 tháng sáu năm Bính Ngọ, Nguyễn Huệ dẫn đại quân tới Vị Hoàng. Ngay ngày hôm sau, tổ chức đánh Sơn Nam thượng, tấn công vào thủ phủ của nó là phố Hiến (ngày 18 tháng 7 năm 1786). Trận tiến công bắt đầu vào 6 giờ chiều, Nguyễn Huệ cho thuyền không người tiến lên thu hút hoả lực của quân Trịnh. Đến lúc quân Trịnh bị kiệt tên đạn, thuỷ binh Tây Sơn ào lên đánh phá, dùng cả pháo binh trên thuyền chiến bắn vào các trận địa quân Trịnh. Quân Tây Sơn đổ bộ, tiến thẳng vào các trận địa, tung hoả hổ đốt phá rộng khắp. Trận đánh kết thúc nhanh chóng trong một đêm. Sáng 19 tháng 7 năm 1786, tức rạng sáng ngày 24 tháng sáu năm Bính Ngọ, quân Tây Sơn giành thắng lợi hoàn toàn. Các đạo quân của chúa Trịnh ở đây bị tan rã. Đoàn quân chiến thắng của Nguyễn Huệ rầm rộ tiến vào Phố Hiến.

Hạ xong Phố Hiến, Nguyễn Huệ cho tiến quân ngay đánh Thăng Long. Xuôi theo gió Đông Nam, thuyền chiến Tây Sơn tiến rất nhanh, ngày 21 tháng 7 năm 1786, tức 26 tháng sáu Âm lịch, thuỷ binh Tây Sơn đã tiến đến Nam Dư. Nguyễn Huệ cho một cánh quân đổ bộ lên Bến Nam Dư, vòng lên đánh úp thuỷ binh Trịnh ở Bến Thúy Ái (Thuý Lĩnh, Nam Dư, thuộc Xã Trần Phú, Thanh Trì ngày nay). Tiếp đó đánh Hồ Vạn Xuân (theo sử sách cũ, Hồ Vạn Xuân là Đầm Vạn Phúc, ở Thôn Vạn Phúc, Huyện Thanh Trì ngày nay). Cùng lúc đó thuỷ binh Tây Sơn vẫn tiến thẳng lên phía trước Thành Thăng Long, đổ bộ lên Tây Long (khoảng đầu Phố Tràng Tiền ngày nay) rồi đánh thẳng vào khu Ngũ Long (một lầu cao khoảng 300 thước cổ, xây dựng khoảng đầu Thế kỷ XVIII cạnh Hồ Hoàn Kiếm), đúng vào trận địa quân Trịnh Khải. Cuộc chiến đấu  đang diễn ra quyết liệt, thì viên tuỳ tướng Tây Sơn thi hành lệnh mật vào thành từ trước, nay tham gia chiếm giữ Hoàng thành và trao mật tấu “tôn phù'' của Nguyễn Huệ cho Vua Lê.

Quân Tây Sơn làm chủ Kinh thành Thăng Long trong ngày hôm ấy, 21 tháng 7 năm 1786, tức 26 tháng 6 năm Bính Ngọ. Đại quân Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long. Kể từ ngày 11 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Hữu Chỉnh đánh Vị Hoàng, đến 21 tháng 7 năm 1786 Nguyễn Huệ vào Thăng Long, chỉ mất có 10 ngày cuộc tấn công Bắc Hà kết thúc thắng lợi rất vẻ vang. Ngày 31 tháng 7 năm 1786, tức ngày 7 tháng bảy năm Bính Ngọ, Nguyễn Huệ cùng các tướng sĩ Tây Sơn và các quan văn võ Bắc Hà vào triều chúc mừng Vua Lê Hiến Tông. Ngày 1 tháng 8 năm 1786, vua Lê Hiến Tông sắc phong Nguyễn Huệ làm ''Nguyên soái phù chính dực vũ, Uy quốc công”. Binh quyền, chính quyền Bắc Hà hoàn toàn trong tay Nguyễn Huệ, người lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân Tây Sơn. Nguyễn Huệ, nhà chiến lược và là nhà quân sự thiên tài, văn võ kiêm toàn đã có công lao to lớn thực hiện lập lại nền thống nhất trên một phạm vi rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá cho đến hết miền Bắc. Sự nghiệp thống nhất nước nhà của Nguyễn Huệ ở thời kỳ này hết sức huy hoàng và vĩ đại.

Sau chiến thắng, chính trị nội bộ Tây Sơn không ổn định, lục đục. Trong Nam, Nguyễn ánh lại đang âm mưu chiếm lại Gia Định, ngoài Bắc bọn cận thần nhà Lê vẫn xúi giục nhân dân, chiêu mộ quân cần Vương" nổi dậy ở một số nơi. Dân chúng Bắc Hà bị Chúa Trịnh lừa bịp, chưa phải đã ngả hết về phía Tây Sơn. Sẵn có âm mưu từ trước, nay có Lê Chiêu Thống cầu cứu nên Vua Càn Long nhà Thanh vội bắt tay vào chuẩn bị xâm lược nước ta.

Nguy cơ mới lại đến với đất nước. Trong Nam đang chịu sự đe doạ của Chủ nghĩa tư bản phương Tây do Nguyễn ánh cấu kết, ngoài Bắc, nhà Thanh lăm le xâm lược. Kẻ thù uy hiếp vận mệnh dân tộc ta cả từ cả bên trong lẫn từ bên ngoài, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, trên cả hai đầu đất nước. Người anh hùng Nguyễn Huệ cùng với nghĩa quân Tây Sơn đang đứng trước sự hiểm nghèo của vận mệnh dân tộc, đứng trước một sứ mạng lịch sử phải chống thù trong giặc ngoài, cứu dân cứu nước.

Thiên tài quân sự, chính trị, thiên tài chiến lược của Nguyễn Huệ biểu hiện sáng chói trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược.

Đại phá quân Thanh

Năm 1788 âm mưu Nhà Thanh xâm lược nước ta đã trở thành nguy cơ trực tiếp và chủ yếu. Quân Thanh với hơn hai mươi vạn lính chiến đấu và hàng chục vạn lính tải lương chia làm bốn đạo tiến vào kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược.

Đại phá quân Thanh

Năm 1788 âm mưu Nhà Thanh xâm lược nước ta đã trở thành nguy cơ trực tiếp và chủ yếu. Quân Thanh với hơn hai mươi vạn lính chiến đấu và hàng chục vạn lính tải lương chia làm bốn đạo tiến vào đất Việt ta tháng 11 năm 1778, do tổng đốc lưỡng quảng Tôn Sỹ Nghị thống lĩnh. Quân Tây Sơn ở Bắc lúc đó chỉ có vài vạn dưới sự chỉ huy của tướng Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm đã chủ động rút lui chiến lược, bảo toàn lực tượng. Nguyễn Huệ sáng suốt theo dõi chặt chẽ tình hình và đánh giá cao chủ trương này. Ngô Thì Nhậm nói ''Nay ta bảo toàn quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên, cho chúng ngủ trọ một đêm rồi đuổi chúng đi.”.

Ngày 21 tháng 12 năm 1788, được tin cấp báo của Ngô Văn Sở, Nguyễn. Huệ làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống lĩnh đại quân thần tốc tiến ra Bắc Hà. Với số lượng từ 5 đến 10 vạn quân, Nguyễn Huệ đã chỉ huy toàn bộ đội hình vượt qua chặng đường dài khoảng 550km trong vòng 15 ngày đi đường, nhằm mục tiêu tiêu diệt quân Thanh. Ngày 22 tháng 12 năm 1788 tiến quân, ngày 28 tháng 12 tới Nghệ An, vừa đi vừa thêm quân, tổng số lên đến 10 vạn quân và đội tượng binh vài trăm voi chiến. Biên chế xong đội ngũ chiến đấu, Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh và động viên tướng sĩ, rồi gửi thư cho Tôn Sỹ Nghị xin ''bãi binh”, khiến giặc thêm kiêu ngạo, chủ quan. Trong khi đó, Tây Sơn vẫn tiếp tục hành quân. Ngày 15 tháng 1 năm 1789 tới Tam Điệp. Tại đây, Nguyễn Huệ khẳng định chủ trương tạm lui quân của các tướng lĩnh Bắc Hà là đúng, ông nói: ''. . . Chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn đội ngũ, rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến cho lòng quân kích thích, ngoài thì khiến cho lòng giặc kiêu căng, đó là một kế rất hay…” (Ngô Gia Văn Phái - Hoàng Lê Nhất thống chí). Nguyễn Huệ cho tạm dừng tiến quân để chuẩn bị lấy thêm lính, đồng thời truyền hịch kể tội quân Thanh, động viên nhân dân Bắc Hà đoàn kết, quyết tâm diệt giặc. Địch chủ quan lơ là, mất cảnh giác, nhân dân và quân đội ta được chuẩn bị trên mọi mặt, khí thế diệt giặc lên cao, tất cả đều đã sẵn sàng. Thời cơ tốt để phát động tiến công đã đến, Nguyễn Huệ hạ quyết tâm đánh chớp nhoáng nhằm tiêu diệt toàn bộ quân Thanh. Ông quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1789  (tức 30 tháng Chạp năm Mậu Thân) xuất quân và tuyên bố trước toàn thể quân sĩ sẽ ăn Tết khai hạ ở Thăng Long vào ngày mồng 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu. Tận dụng yếu tố bí mật bất ngờ, lợi dụng sơ hở của địch, Nguyễn Huệ đã lựa chọn cách đánh chiến dịch là tiến công từ nhiều hướng, bao vây vu hồi, đồng thời bố trí sẵn lực lượng tiêu diệt địch trên đường chúng rút lui.

Ngày 30 tháng chạp năm Mậu Thân, hạ Đồn Gián Khẩu. Ngày 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu bức hàng Đồn Hà Hồi (tức ngày 28 tháng 1 năm 1789). Ngày 4 tháng Giêng năm kỷ Dậu (tức ngày 29 tháng 1 năm 1789) tiêu diệt Đồn Ngọc Hồi; cũng ngay trong đêm ấy quân Tây Sơn tiêu diệt Đồn Khương Thượng (Đống Đa - Thăng Long) và tiến công thẳng vào đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị. Sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu được tin toàn bộ quân Thanh xung quanh Thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, các tưởng Thanh đều tử trận, Tôn Sỹ Nghị chạy trốn theo đường lên ải Nam Quan về Trung Quốc.

Sau khi chiến thắng quân Thanh ở mặt trận phía Nam, Nguyễn Huệ và đô đốc Bảo tiến quân vào Thăng Long. Đô đốc Long đem quân từ trong thành ra đón. Chiều ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, tức 30-1-1789, Nguyễn Huệ vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã đen sạm màu thuốc súng.

Sáng mồng 6 Tết năm Kỷ Dậu (31-1-1789), trừ một bộ phận tiếp tục đuổi địch, còn các đạo quân khác đều được nghỉ ngơi ăn Tết khai hạ (mồng 7 tháng Giêng) tại đất Thăng Long, đúng như lời Nguyễn Huệ đã hứa trước quân sĩ tại Tam Điệp.

Toàn bộ quân địch bị đánh tan tác, bỏ chạy. Không đầy một tuần lễ, 20 vạn quân Thanh đã bị quét sạch.

Tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống quân xâm lược giành thắng lợi to lớn chỉ bằng một chiến dịch đã chứng minh hùng hồn tài năng quân sự của Nguyễn Huệ trên nhiều mặt chính trị, nghệ thuật quân sự và tài trực tiếp cầm quân:

- Trước hết, về mặt chính trị, để làm sáng tỏ tính chất chính nghĩa và có danh nghĩa đối với cả nước, trách nhiệm chính trị đối với toàn dân trên cả 2 miền Nam Bắc, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi Hoàng đế. Hành động đó chứng tỏ cả nước chỉ có một chính quyền thống nhất và một niên hiệu thống nhất - niên hiệu của Hoàng đế Quang Trung.

- Thể hiện tài tổ chức và động viên lực lượng. Khi tiến quân đến Thanh Hoá, tiến hành tuyển thêm quân chỉ trong vài ngày có tới hàng vạn tân binh. Tổng quân số lúc đó lên tới 10 vạn người và có một đội tượng binh với vài trăm voi chiến. Nguyễn Huệ tổ chức quân của mình thành 5 doanh: tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân và trung quân. Các tân binh mới tuyển ở Nghệ An và Thanh Hoá được để ở trung quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ. Cách tổ chức của Nguyễn Huệ cũng chứng tỏ tài dùng người, tài tổ chức động viên quân đội lòng thương yêu chiến sĩ và sự tự tin rất cao của một vị thống soái cầm quân. Những trai tráng mới mặc áo lính được chiến đấu dưới quyền chỉ huy trực tiếp của một vị tướng bách chiến bách thắng đã làm cho họ nức lòng, vững tin vào chiến thắng, dù cho họ chưa trải qua chiến trận, chưa qua thao luyện kỹ càng.

Tại Thanh Hoá, khi dừng lại tuyển thêm tân binh, thực hiện tổ chức biên chế, chấn chỉnh đội ngũ, chuẩn bị bước vào một cuộc quyết chiến đánh bại quân xâm lược, Nguyễn Huệ đã làm lễ thệ sư (lời thề của các tướng sỹ). Đây là một hình thức động viên chính trị to lớn. ông ra huấn dụ:

Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nhó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hung chi hữu chủ.

 

 (có nghĩa: Đánh để vẫn giữ được phong tục tập quán, vẫn để được tóc dài, vẫn nhuộm được răng đen. Đánh cho nó không còn nổi một chiếc bánh xe để chạy về nước. Đánh cho nó mảnh giáp cũng chẳng còn. Đánh cho lịch sử biết rằng nước Nam anh hùng có chủ nhân của nó).

Với huấn dụ trên, Nguyễn Huệ khẳng định Việt Nam là một nước anh hùng, nước có chủ quyền. Huấn dụ bằng nửa Nôm, nửa Hán có một giá trị mới của văn hoá, trước đó các bậc tiền bối chỉ dùng Hán văn. Về mặt chính trị, đây thực sự là một bản Tuyên ngôn độc lập có đầy đủ nội dung văn hoá, chính trị, quân sự.

Trước khi tiến quân, Nguyễn Huệ còn truyền Hịch kể tội quân Thanh, nêu cao tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu sắp tới của quân dân Việt Nam.

- Đi vào tổ chức và thực hành chiến dịch, Nguyễn Huệ chứng tỏ thiên tài quân sự trước hết là ở đánh giá chính xác kẻ địch, nắm vững ý đồ tác chiến, nắm chắc và phân tích chính xác đặc điểm bố phòng của địch cũng như tình hình cụ thể của tướng và quân địch. Trên cơ sở đó, Nguyễn Huệ đã hạ quyết tâm và lập kế hoạch tác chiến có thể đạt đến hiệu quả cao nhất, có đầy đủ các dự kiến tình huống. Biết địch lúc đó dự định từ Thăng Long xuất quân vào ngày mồng 6 tháng Giêng, Nguyễn Huệ quyết định đánh tan chúng trước khi xuất quân. Biết chắc quân Thanh chỉ lập một mặt trận phía Nam Thành Thăng Long, tập trung quân chủ lực ở đấy, đặc biệt là ở hai đầu kiên cố nhất là Hà Hồi và Ngọc Hồi, còn đại quân của Tôn Sỹ Nghị lại đóng ở hai bờ sông Hồng và mấy vạn quân Điền Châu, Triều Châu của Sầm Nghi Đống đóng ở Khương Thượng, phía Tây Nam Thành Thăng Long. Tất cả đội hình bố trí đều đang trong tư thế chờ tin tức của mặt trận phía Nam và đợi chờ ngày xuất quân.

- Nguyễn Huệ đã chia quân làm 5 đạo, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đạo quân. Mỗi đạo quân có một số tướng lĩnh chỉ huy, đứng đầu là một Đô đốc hay Đại Đô đốc.

+ Đạo quân thứ nhất - chính binh, do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy, có Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tiền quân và Hám Hổ Hầu đi hậu quân đốc chiến. Đạo quân này có bộ binh, tượng binh, kỵ binh, có nhiệm vụ đánh vào mặt trận chính của quân Thanh trên đường phía Nam Kinh thành Thăng Long.

+ Đạo quân thứ hai đi đường thuỷ, do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, nhiệm vụ là tiến vào Sông Lục Đầu, tiêu diệt đội quân Cần Vương của Lê Chiêu Thống ở Hải Dương rồi tiến vào Sông Hồng tiếp ứng cho các đạo quân đánh trong thành và trên bến Tây Long.

+ Đạo quân thứ ba do đại đô đốc Nguyễn Văn Lộc chỉ huy, cùng đi đường thuỷ với đạo quân của đô đốc Tuyết. Nhưng khi đến Sông Lục Đầu thì có nhiệm vụ tiến nhanh về các hạt Phượng Nhàn, Lạng Giang, Yên Thế để chặn đường chạy về nước của quân giặc.

+ Đạo quân thứ tư do đô đốc Bảo chỉ huy, gồm tượng binh và kỵ binh, tiến theo đường Sơn Minh  (Huyện Ứng Hoà, Hà Tây ngày nay), vượt ra lăng Đại Áng ở Tây Nam Ngọc Hồi để phối hợp với chính binh tiêu diệt đồn này - một vị trí quan trọng nhất của mặt trận phía Nam Thăng Long, có bản doanh của viên tướng Thanh chỉ huy mặt trận là Hứa Thế Hanh.

+ Đạo quân thứ năm cũng gồm tượng binh và kỵ binh do đô đốc Long (còn gọi là Đặng Tiến Đông) chỉ huy. Tham gia chỉ huy còn có đô đốc Trần Văn Lễ. Đây là đạo kỵ binh rất quan trọng phối hợp với tượng binh, có sức cơ động cao, sức đột phá mạnh. Nhiệm vụ của đạo quân này là bao vây tiêu diệt quân Sầm Nghi Đốn ở Khương Thượng, bất ngờ thọc sâu vào chiếm đóng Kinh thành, làm cho các mặt trận của địch hoang mang, nhanh chóng tan rã.

Trước lúc hành binh, Nguyễn Huệ mở tiệc khao quân, động viên tinh thần chiến đấu, và hẹn đến mồng 7 tháng Giêng vào Thanh Thăng Long mở tiệc lớn.

Bằng cách đánh chiến dịch rất táo bạo, Nguyễn Huệ đã vận dụng hết sức linh hoạt các yếu tố bí mật, bất ngờ, tiến công trên nhiều hướng, thực hiện bao vây tiêu diệt bằng cơ động lực lượng mau lẹ và quyết liệt kết hợp tiến công chính diện với thọc sâu chia cắt vu hồi đánh vào cạnh sườn, đánh vào sau lưng địch, bảo đảm sức tiến công nhanh mạnh và liên tục để tiêu diệt từng bộ phận địch. Nguyễn Huệ đã tài tình, khéo léo giải quyết tập trung lực lượng mạnh để đánh vào từng điểm mà địch yếu thế hơn. Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ không chỉ giải quyết cách đánh chung, đánh lớn toàn chiến dịch, mà còn giải quyết cách đánh cụ thể của từng trận, chọi với từng đối tượng chiến đấu cụ thể. Các trận đó được hoàn thành thắng lợi rất ăn khớp về thời gian, hình thành một hệ thống các trận đánh ăn ý nhau về mọi mặt, hiệp đồng chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Tổ chức cơ động, hiệp đồng tác chiến cho các mũi tấn công rất chính xác cả về thời gian lẫn không gian của toàn chiến dịch là một nét đặc sắc, rất nổi bật nghệ thuật tác chiến ở quy mô chiến dịch.

Tốc độ tiến công của chiến dịch đạt đến mức thần kỳ.

Đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân xuất quân, đạo chính binh đến Gián Thuỷ, tiến công Đồn Gián Khuất.

Nửa đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (20- 1-1789) quân Tây Sơn vây Đồn Hà Hồi, diệt đồn này trong khoảnh khắc, bắt sống hàng vạn quân Thanh, không tốn một hòn đạn, mũi tên. Đó là dùng cách đánh nghi binh, lừa địch, khua chiêng trống, hò reo, bắc loa truyền hịch, tiếng quân lính thưa vang như có hàng vạn quân đang sắp sửa xung phong.

Ngày mồng 4 tháng Giêng, đạo kỳ binh của đô đốc Long tới Làng Nhân Mục, vào quá nửa đêm tiến công Đồn Khương Thượng, tham gia trận đánh có đội voi chiến mang đại bác trên lưng. Đô đốc Long để một số tướng chỉ huy một bộ phận binh sĩ vây đánh Sầm Nghi Đống, còn mình thì chỉ huy quân đội đánh thẳng vào giải phóng Thăng Long. Đêm mồng 4 rạng mồng 5 Âm lịch, tiêu diệt Đồn Nam Đồng, tiến nhanh về cửa Tây Thành Thăng Long. Đô đốc Long tiến quân nhanh về phía đại bản doanh Tôn Sỹ Nghị. Vừa đúng lúc này thuyền chiến của đô đốc Tuyết cũng theo Sông Hồng ào ạt tiến vào Bến Tây Long. Tôn Sỹ Nghị bỏ chạy, quân Thanh tan tác, cầu phao qua sông bị gãy.  

Sáng mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789) Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ tổ chức thực hiện tấn công Đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh và Trương Triều Long. Đồn này kiên cố, quân đông, tướng giỏi, bố trí địa lôi, rải chông sắt. Trước khi tiến công, Nguyễn Huệ cho quân đánh vu hồi và chặn đường rút của địch từ đoạn Tự Khoát đến Yên Duyên, Sở Thượng. Mờ sáng, Nguyễn Huệ ra lệnh xung phong. Hơn một trăm voi chiến xông lên, kỷ binh tinh nhuệ của quân Thanh bỏ chạy tán loạn. Nguyễn Huệ trên mình voi chỉ huy cho đội voi chiến chia làm 2 cánh tả hữu đánh vào 2 sườn, dùng một cánh bộ binh thiện chiến xung phong chính diện. Các chiến sĩ Tây Sơn trên mình voi chiến ném ''hoả cầu lưu hoàng'' (một thứ hoả hổ) đốt cháy mọi vật và người. Tàn quân Thanh chạy về đến Yên Duyên thì đã thấy quân Tây Sơn đóng kín ở đó, quân kỳ phấp phới, đến khi đám tàn quân này về đến Thăng Long thì bị luôn tượng binh của đô đốc Bảo từ Đại áng xông tới, bọn tàn quân Thanh chết hàng vạn. Nguyễn Huệ và đô đốc Bảo tiến vào Thành Thăng Long, đô đốc Long từ trong thành đem quân ra đón, lúc đó là vào chiều mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789).

Thăng Long được giải phóng, quân Tây Sơn toàn thắng, quân Thanh đóng ở Sơn Tây tự bỏ chạy. Nguyễn Huệ cho truy đuổi mà không đánh, chặn bắt sống Tôn Sỹ Nghị. Nhiệm vụ này đã được giao cho đô đốc Lộc từ trước. Nguyễn Huệ còn cho kêu gọi bọn tàn quân lẩn trốn ra đầu hàng. Chỉ trong vòng 10 ngày, số quân Thanh ra đầu hàng lên tới vài vạn. Nguyễn Huệ cho chôn cất các binh sĩ giặc bị chết trận. Số xác giặc tại mặt trận Khương Thượng được chôn thành 12 gò đống. Chôn xong, ông cho Võ Huy Tấn làm văn tế cô hồn giặc.

Trận đại phá quân Thanh bắt đầu vào đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân, kết thúc thắng lợi ròn rã vào chiều mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, sau 5 ngày tốc chiến tốc thắng vô cùng oanh liệt của quân Tây Sơn.

Từ ngày lập quốc cho tới cuối Thế kỷ XVIII, dân tộc và đất nước ta đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống quân ngoại xâm và cũng đã chiến thẳng tất cả những kẻ thù hung hãn nhất của các thời đại, nhưng chưa bao giờ lại tiêu diệt gọn một lực lượng lớn quân xâm lược trên 20 vạn tên và quân phản quốc, tay sai chỉ trong 5 ngày như trận đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ.

Chiến thắng này nói lên đầy đủ tài năng quân sự của người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Từ đây, chiến công hiển hách đại phá quân Thanh góp phần giữ vững nền độc lập của Tổ quốc việt Nam, vĩnh viễn chấm dứt nạn xâm lăng của các tập đoàn phong kiến phương Bắc luôn đe dọa dân tộc Việt Nam trong suốt máy nghìn năm.

Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ cũng nổi bật ở đặc điểm: đánh tiêu diệt và tiêu diệt lớn; tiến công chủ động liên tục thần tốc bất ngô; đánh áp đảo, cơ động linh hoạt quyết liệt và thần tốc; sử dụng nhiều binh chủng và tổ chức tác chiến hợp đồng binh chủng khéo léo; sử dụng những vũ khí độc đáo, tạo nên xung lực và hoả lực mạnh đột phá mạnh; có cách đánh chiến dịch và cách đánh từng trận sáng tạo và thích hợp.

Ở phạm vi chiến lược thiên tài quân sự Nguyễn Huệ biểu hiện ở sự tinh tường biết lưa chọn đối đầu chính xác với kẻ địch chủ yếu, với từng tình huống chiến tranh. Nguyễn Huệ tài giỏi giải quyết mối quan hệ thời gian và không gian của chiến tranh, nhằm đúng đối tượng cần giải quyết theo thứ tự ưu tiên trước sau. Toàn bộ cuộc chiến tranh do Nguyễn Huệ nổi bật lên những đặc đếm đánh chính quy, đánh tập trung cao, có cả đánh công thành, đánh trận địa và đánh vận động. Nguyễn Huệ đã thực hành nghệ thuật đánh vu hồi chiến lược và chiến dịch, nổi bật tư tướng tấn công tích cực, tư tưởng đánh tiêu diệt rất cao.

Trong lịch sử chiến tranh ở nước ta, Nguyễn Huệ thường chỉ thực hành một trận quyết chiến chiến lược là giành được thắng lợi hoàn toàn.

Công lao của người anh hùng ''áo vải” có học vấn thực tế còn vươn xa hơn nữa, ra ngoài cả thiên tài quân sự.

Sau chiến thắng đại phá quân Thanh, Quang Trung - Nguyễn Huệ thực hiện nhiều biện pháp ngoại giao tích cực, phát triển quan hệ giao hảo Việt Nam - Trung Quốc. Tháng 3 năm Kỷ Dậu (1789) Sứ bộ Việt Nam gồm Nguyễn Quang Hiền, Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử lên đường sang Yên Kinh gặp Càn Long. Vua Càn Long tiếp sứ bộ ta rất trọng hậu và ngỏ lời mời Quang Trung - Nguyễn Huệ, quốc vương Việt Nam sang thăm triều đình Yên Kinh vào năm sau (1790) nhân dịp mừng thọ Vua Càn Long tuổi 80. Sứ bộ ta nhận lời. Tháng Mười Một Âm lịch, Vua Càn Long cho sứ bộ mang chiếu phong Vương sang Thăng Long. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ ở laịi Phú Xuân, cho cháu họ ngoại là Phạm Công Trị đóng vai quốc vương ra Thăng Long nhận chiếu phong vương.

Vua Quang Trung thực hiện dựng nước theo đường lối ''Quốc phú, dân cường, Nội yên ngoại tĩnh”.

 Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đã hạ chiếu khuyến nông, thực hiện ''chính sách để dân giàu”, ra lệnh buộc những dân phiêu tán phải “trở về quê quán khai khẩn ruộng hoang”. Ông nêu rõ mối quan tâm của ông đối với việc này: ''Đây chính sách buổi đầu, hướng dân chăm nghề gốc. Lệnh ban ra phải thi hành”. Nhờ Chính sách này, từ năm 1790 đến 1794 năm nào cũng được mùa, đất nước yên bình.

Để thực hiện phát triển Công thương nghiệp, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ viết thư yêu cầu Thúc An Khang ở Quảng Tây ''Mở cửa ải, thông chợ búa, khiến cho hàng hoá không ngưng đọng để làm lợi cho dân chúng”, để cho buôn bán và tiền tệ hai nước được lưu thông.

Vua Quang Trung đã hạ chiếu khuyến học, cho lập các nhà học ở các xã, phủ, huyện. Trong chiếu chỉ rõ ''dựng nước lấy dạy học làm đầu, muốn thịnh trị lấy nhân tài làm gốc. Ông cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm và cho làm sách sử.

Quang Trung Nguyễn Huệ biết dùng người, quý người, trọng người hiền tài, biết dung nạp, biết động viên. Nhà vua ra chiếu cầu hiền, lời lẽ rất khiêm tốn, chân thành: "Từng nghe người hiền xử thế giống như sao sáng bầu trờii. Sao sáng tát hướng về Bắc Đẩu, người hiền tất giúp việc Thiên Tử. Nhược bằng giấu mình ẩn tiếng, có tài không dùng tài giúp đời, thì đó không phải là ý trời sinh người hiền. . .”. Tấm lòng ưu ái, tin cậy, quý người của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã thu hút được nhiều Nho sĩ, nhiều bậc hiền tài quy tụ, để cùng thau làm việc nước. Nhiều người tài của triều đình cũ như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy tích, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Vũ Huy Tấn, Ninh Tốn. . . đều đã hết lòng ra phục vụ triều đại Tây Sơn.

Vua Quang Trung Nguyễn Huệ rất quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức lực lượng vũ trang để dẹp tan các lực lượng phản động ở Bắc Hà, giải phóng miền Gia Định khỏi ách thống trị của Nguyễn Ánh.

Trên mặt trận văn hoá, Quang Trung Nguyễn Huệ có những khai phá mới, đưa chữ Nôm thành chữ viết chính thức của Quốc gia. Ông coi trọng bảo vệ các di sản văn hoá, ý thức trân trọng truyền thống văn hoá được bộc lộ rõ và đầy đủ: ''Nay mai dựng lại nước nhà, bia ngà lại dựng trên toà muôn gian”.

Sau kháng chiến chống ngoại xâm thành công, đi đôi với việc gấp rút xây dựng và phát triển đất nước, Quang Trung kiên quyết thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước. Năm 1792, Hoàng đế Quang Trung chuẩn bị mở cuộc tiến công lớn nhằm triệt để tiêu diệt bọn phản động ở Gia Định. Ngày 27 tháng 8 năm 1792 đã truyền Hịch.

Ngày 16 tháng 9 năm 1792, Quang Trung - Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi Hoàng đế được 4 năm, hưởng thọ 39 tuổi, miến hiệu là Thái Võ Hoàng đế.

Nguyễn Huệ là một trong những nhân vật đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông đã chiến đấu liên tục chiến đấu với thiều kẻ thù trong và ngoài, xử lý nhiều tình huống hiểm nghèo của đất nước, đưa đất nước thoát khỏi mọi hiểm hoạ. Trong suốt 20 năm chiến đấu, Nguyễn Huệ chưa hề chùn bước, ông tin tưởng chúng dân, trọng dụng nhân tài, có mưu trí tuyệt vời có lòng gan dạ ít ai bì nổi. Nguyễn Huệ là một vị danh tướng, chỉ đánh thắng, không có bại, là một nhà quân sự thiên tài, một thà chiến lược lỗi lạc, một vị Hoàng đế giỏi trị vì đất nước. Ông đề ra những quyết sách quan trọng nhằm đưa đất nước tiến lên. Nguyễn Huệ còn là một anh hùng trên cả các lĩnh vực khác như xây dựng đất nước, đấu tranh cho thống nhất Tổ quốc với cương vị là một Hoàng đế anh minh.

ĐẠI TÁ QUÁCH HẢI LƯỢNG




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/141-02-633384943233622500/Nhung-vi-Tuong-noi-tieng-The-gioi/Nguyen-H...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận