Tại sao chúng ta phải tiêm chủng?
Đó là nhằm bảo vệ cá nhân chống lại những bệnh nhiễm khuẩn trầm trọng, đồng thời cũng vì sức khỏe của mọi người. Trên thực tế khi tiêm chủng đủ số người để phòng ngừa một tác nhân gây nhiễm, người ta cũng ngăn chặn tác nhân này lây lan. Từ đó có thể thu hẹp hậu quả của bệnh, thậm chí loại trừ nó (trường hợp bệnh đậu mùa, được cho rằng đã bị tiệt trừ khỏi hành tinh năm 1980).
Trong thời gian đầu, tỷ lệ người phải tiêm chủng so với tổng số dân được đặt ra qua các mô hình được xây dựng, có chú ý đến tính truyền nhiễm của tác nhân gây bệnh, của dịch tễ học và bệnh, cũng như đặc điểm của văcxin và các mục tiêu cần đạt được (giảm bớt hoặc tiêu trừ bệnh). Sau đó tỷ lệ này được xem lại thường xuyên qua các dữ liệu dịch tễ học thu được trên hiện trường.
Đôi khi mục tiêu cần đạt buộc phải tiêm chủng một bộ phận cư dân mà thoạt tiên không có liên quan. Đó là trường hợp đối với bệnh sốt phát ban. Vì bệnh này chỉ nặng khi nhiễm từ mẹ sang thai nhi, nên người ta có thể xem xét chỉ tiêm chủng cho phụ nữ trong tuổi sinh đẻ. Nhưng kinh nghiệm đã cho thấy không thể làm biến mất bệnh sốt phát ban gây di dạng bẩm sinh nếu không tác động đến sự lưu thông của virus. Vì văcxin này có thể kết hợp với hai loại văcxin khác với chi phí thêm thấp, nên cũng dễ tiêm chủng cho toàn bộ số trẻ còn bú. Với văcxin ROR (sởi/quai bị/sốt phát ban), người ta hy vọng “xích chân” được virus không cho lưu thông, đến mức loại trừ được bệnh sốt phát ban bẩm sinh ở châu Âu từ nay đến năm 2010. Theo logic tương tự, người Nhật đã thực hiện tiêm chủng chống cúm ở trẻ em trong tuổi đi học để giảm bớt nguy cơ mắc bệnh cúm nặng ở người già.