VĂN HÓA NHẬT BẢN – SỰ HÒA TRỘN KHÉO LÉO GIỮA
HAI BẢN ĐỊA VÀ NGOẠI LAI
Có lẽ tạo hóa đã mang lại cho Nhật Bản một điều không thể phủ nhận rằng người Nhật là sự hòa trộn của các tộc người khác nhau từ thời tiền sử. Những tài năng nghệ thuật của người Nhật sau này cũng bắt nguồn từ quá khứ xa xưa.
Hàng ngàn năm về trước, nền văn hóa thời đại đồ đá mới (tương ứng với hai nền văn hoa của Nhật Bản là Joinon và Yayoi) đã đạt tới một trình độ khá cao mà nhiều học giả Nhật Bản đã khẳng định rằng, đó là một trong những nền văn hóa thời đại đồ đá mới phát triển nhất trên Thế giới về mặt kỹ năng chế tạo vũ khí và công cụ, tính độc đáo trong hoa văn và trang trí đồ gốm.
Vào cuối Thế kỷ III, do ảnh hưởng của Triều Tiên, người Nhật bắt đầu xây mồ mả lớn bằng đất để chôn cất các tộc trưởng với quy mô ngày càng to. Tuy nhiên, nó chẳng giống một chút nào về hình dáng với các lăng mộ ở Triều Tiên hay Trung Quốc.
Từ Thế kỷ VI, ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa vào Nhật Bản ngày càng rõ. Việc truyền bá đạo Phật trong thời kỳ này đã ảnh hưởng trực tiếp đến nghệ thuật kiến trúc Nhật Bản.
Chùa Horyu ở Nara được xây cất năm 607 là ngôi chùa bằng gỗ cổ nhất Thế giới hiện nay còn được bảo lồn. Cũng ở Nara một thương khố gọi là Shosoin được xây cất bằng gỗ từ Thế kỷ VIII là nơi lưu trữ các bảo vật, kinh kệ, tác phẩm mỹ thuật trong 12 Thế kỷ qua.
Vào thời Nara (710 - 794) là Heian (794 - 1185) là thời kỳ cực thịnh của ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Trong đó có chữ viết (chữ Hán), thể chế chính trị, Phật giáo, Khổng giáo, kiến trúc, nông nghiệp, giao thông v.v. . .
Song, bao giờ người Nhật cũng sửa đổi một cách uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh của nước mình. Hai cuốn lịch sử đầu tiên của Nhật Bản do tác giả người Nhật biên soạn là Kojiki (712) và Nihon Shoki (720). Vào thời gian này, dựa trên cơ sở chữ Hán, người Nhật sáng tạo ra loại chữ mới Kana để diễn tả tiếng nói của người Nhật. Nhiều tác phẩm văn thơ nổi tiếng được lưu truyền cho hậu thế như bộ Vạn diệp tập gồm 5 nghìn bài thơ ca, hò vè chọn lọc. Hoặc như Truyện kể Genji hay Makura no soshi (cuốn sách gối đầu). Tuy nhiên, văn hóa của thời kỳ này vẫn còn là thứ văn hóa xa hoa mỹ lệ của giới quý tộc chuyên quyền. Nó chỉ mang đầy đủ những yếu tố bình dân thể hiện sự sáng tạo của quảng đại quần chúng, khi giai cấp võ sĩ lên cầm quyền kể từ Mạc Phủ Kamakura được thiết lập (1185). Đặc biệt nền văn hóa Muromachi (1338 - 1573) đã để lại cho Nhật Bản những di sản quý giá nhất. Chùa Vàng (Kinkaku) và Chùa Bạc (Ginkaku) ở Kyolo lộng lẫy và tráng lệ. Những bức tranh thủy mạc của Sesshu (1420 - 1 560) đạt đến mức độ hoàn hảo. Kịch No (Nô) là lối hát tuồng độc đáo của Nhật Bản: Nghệ thuật cắm hoa, trà đạo, đình viên tiếp thu từ Trung Quốc mà bây giờ không ai có thể phủ nhận rằng, nó đang là một trong những nghệ thuật điển hình đậm màu sắc, sắc thái dân tộc của Nhật Bản.
Cũng vào thời kỳ này, súng ống được người Bồ Đào Nha truyền vào Nhật Bản đã làm biến đổi cục diện chiến trường, nhưng đặc biệt đã thúc đẩy nghệ thuật kiến trúc thành lũy phát triển. Hầu hết các thành còn tồn tại ở Nhật Bản đã được xây cất vào thời kỳ này. Trong đó điển hình là Thành Himeii.
Vào giai đoạn bế quan tỏa cảng của thời Edo, đời sống tư tưởng cũng rất đa dạng và mang nhiều sức sống. Ngoài văn hóa của tầng lớp võ sĩ là văn hóa của Chonin - giai cấp thấp nhất trong xã hội, nhưng họ trở thành người sáng tạo chủ yếu của văn hóa thời Tokugawa. Những tranh khắc gỗ, thơ Haiku (Hài cu), tuồng Kacuki (ca vũ kỹ) v.v. . . là sản phẩm nghệ thuật của giai cấp này. Bên cạnh Nho học được phổ biến, những tư tưởng Quốc học, Lan học, Khai quốc cũng có ảnh hưởng rất rộng. Các lĩnh vực khoa học như số học cũng được phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát đạt của hệ thống thương nghiệp.
Từ Minh Trị Duy Tân (1868), nền văn minh Âu - Mỹ tràn vào Nhật Bản. Có thể nói rằng, toàn bộ những gì tinh túy của văn hóa phương Tây, người Nhật đã học được tất cả. Những tác phẩm văn học nghệ thuật, mỹ thuật hội họa, kịch hát theo các trường phái phương Tây xuất hiện ngày càng nhiều. Nhưng trước hết là sự biến dạng của các đô thị lớn. Nhiều tòa nhà xây theo kiểu kiến trúc phương Tây đã mọc lên. Người ta ăn vận theo kiểu Âu, đội mũ, đi giày da; đàn ông cắt tóc ngắn, tập ăn thịt bò, ăn bánh mì, sữa và uống bia v.v. . . Một tuyến đường sắt đầu tiên nối Tokyo với Yokohama được khánh thành (12 -9 - 1872). Hôm ấy, Thiên hoàng Minh Trị dẫn đầu các quan chức của chế độ mới cởi giầy để dưới sân ga bước lên sàn tàu như thói quen khi bước lên thềm nhà. Sau 57 phút hành trình trên quãng đường dài 30 cây số, triều đình và Chính phủ hoan hỷ bước xuống tàu trước sự đón tiếp long trọng của quần chúng. Song mọi người đều bị bối rối lúng túng bởi tất cả giày đã để lại ở sân ga Tokyo.
Từ buổi đầu bở ngỡ ấy đến nay, nước Nhật đã tiến được những bước phi thường. Đó là nền khoa học, kỹ thuật, công nghệ trên xứ sở Hoa Anh đào làm cho Thế giới nghiêng mình khâm phục.
Ngày nay, Nhật Bản là quốc gia có nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ được đánh giá cao, hùng mạnh thuộc bậc nhất Thế giới. Lĩnh vực đổi mới công nghệ trên đất nước của Hoa Anh đào này có thể tính bằng ngày, bằng tháng. Vì thế, Nhật Bản cũng là quốc gia duy nhất trên Thế giới có ủy ban quốc gia về điều khiển tự động. Ở cấp thấp hơn có các viện, trung tâm; các tập đoàn, công ty cũng có các trung tâm, phòng, labo chuyên nghiên cứu thay đổi mẫu mã mặt hàng, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên - nhiên - vật liệu. Cũng được đặc biệt chú ý là hiện đại hóa quy trình sản xuất.
Khoa học công nghệ ở Nhật Bản phát triển mạnh trong lòng sản xuất và được thị trường hóa tới mức tối đa. Hiện nay, ở Nhật Bản có đến 200.000 rôbốt (người máy). Đây là kết quả của việc phát triển cơ khí chính xác kết hợp với công nghiệp điện tử. Người máy làm việc trong nhiều lĩnh vực phục vụ, dịch vụ; đặc biệt trong các ngành công nghiệp nặng, nhẹ.
Vào năm 1961, hãng Gennơrôn Môtô (Mỹ) chế tạo người máy công nghiệp đầu tiên của Thế giới để thực hiện công việc phun sơn ôtô, xe máy. Thành tựu này ở Nhật Bản mãi đến năm 1967 mới đạt được. Song rất nhanh chóng, đất nước Mặt trời mọc này đã trở thành hàng đầu Thế giới trong lĩnh vực sản xuất và sử dụng rôbốt. Tiếp theo là Thụy Điển, Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Italia. Người máy phát triển nên công nghiệp chế tạo ôtô, xe máy ở đây hoàn toàn tự động hóa.
Năm 1950, trường Đại học Công nghệ Massachusetts của Nhật Bản đã giới thiệu các dữ liệu dưới dạng các hình ảnh và ký hiệu trên màn hình của máy tính. Kỹ thuật đồ họa máy tính tiếp tục phát triển ở Nhật Bản và từ năm 1960 được gọi là CAD. Nhờ nó mà công việc thiết kế kỹ thuật được rút ngắn thời gian hàng nghìn lần so với trước, độ chính xác cũng hầu như tuyệt đối.
Ngày nay, người Nhật Bản có quyền từ hào là người đi đầu Thế giới trong lĩnh vực CAD, sau đó là CAM - dùng máy vi tính trong các hệ thống điều khiển các quá trình sản xuất tự động. Nhờ CAD, CAM mà kỹ thuật điện tử và các sản phẩm điện tử của Nhật Bản đi trước thời đại, hiện đứng hàng đầu Thế giới.
Các hệ thống sản xuất linh hoạt (FMS) ở Nhật Bản cũng phát triển nhanh, mạnh. Hệ thống này tạo ra khả năng tự động hóa điều hành một cách linh hoạt, năng suất cao thích hợp với nhu cầu thị trường đòi hỏi liên tục thay đổi mẫu mã.
Hoạt động khoa học công nghệ, tự động hóa ở Nhật Bản diễn ra tại các tập đoàn, công ty và ở cả cơ quan tư nhân. Chúng gắn chặt với nhu cầu hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước, hoặc của ngay bản thân hãng. Nguồn tài chính khoa học công nghệ chủ yếu do các hãng đầu tư. Hệ thống Nhà nước thông qua các chương trình dưh án lớn của các Cục khoa học kỹ thuật cùng với Bộ Thương mại và công nghiệp Nhật Bản; có chính sách khuyến khích cho hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ tác động vào sản xuất từ A đến Z và đến lượt mình. Lợi nhuận của sản xuất cung cấp tài chính cho khoa học công nghệ, cho các tập đoàn và đất nước phát triển.
NGUYỄN KHÁNG và A.X