Tài liệu: Nghề in và đời sống xã hội ở Trung Quốc và phương Tây

Tài liệu
Nghề in và đời sống xã hội ở Trung Quốc và phương Tây

Nội dung

NGHỀ IN VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Ở TRUNG QUỐC VÀ Ở PHƯƠNG TÂY

 

Trong những phát minh mà chúng ta được thừa hưởng của thời đại Cổ đại, ít cái có thể sánh được với tầm quan trọng của sự phát minh ra giấy và nghề in của Trung Quốc.

Giấy được phát minh ra ở Trung Quốc Tr.CN ít lâu. Vào đầu Thế kỷ II Tr.CN, việc sản xuất giấy ở đây đã được cải tiến cả về mặt chất liệu lẫn kỹ thuật. Vào khoảng Thế kỷ III, giấy đã được dùng rộng rãi ở Trung Quốc và đã bắt đầu truyền ra nước ngoài. Phát minh này được truyền đến phương Tây và buổi đầu của thời kỳ Cận đại. Kỹ thuật in bằng ván khắc được áp dụng đầu tiên ở Trung Quốc vào Thế kỷ VIII, còn kỹ thuật in bằng chữ rời thì đã được ứng dụng ở đây từ thiều Thế kỷ trước Gutenberg. Ngay cả loại mực không phai được phương Tây gọi bằng một cái tên chính xác là “mực Tàu”, đã có ở Trung Quốc từ một thời kỳ rất xa xưa. Chính thờ sự kết hợp giữa những phát minh này nên mới có việc sản xuất hàng loạt và phổ biến rộng rãi các văn bản viết.

Giấy được sáng chế không phải chỉ để dùng cho việc viết lách, như người ta vẫn thường nghĩ lâu nay. Ở Trung Quốc, trước hết nó được dùng rộng rãi trong nghệ thuật và trang trí, trong tế lễ và hội hè, trong giao dịch thương mại như là phương tiện tín dụng và tiền tệ; được dùng làm đồ trang sức và vật trang hoàng nhà cửa, trong vệ sinh y tế và trong các trò chơi giải trí. Có lẽ đến đầu Thế kỷ I Tr.CN, giấy mới được dùng cho việc viết lách; và mãi đến Thế kỷ III CN, nó mới hoàn toàn thay thế những thẻ gỗ thẻ tre nặng nề cồng kềnh để làm sách vở. Và từ đó, việc sử dụng giấy đã khiến cho sách trở nên rẻ hơn, dễ sử dụng hơn; mặc dù phải đợi cho tới lúc nghề in ra đời thì sách mới được sản xuất và phổ biến rộng rãi.

Nghề in ở Trung Quốc ra đời sau hàng loạt cải tiến kỹ thuật diễn ra trong một thời gian khá dài, kể từ việc in bằng con dấu trên đất sét và sau này, đó là trên giấy và trên lụa; cho đến việc dùng bản trổ thủng để in các hìrih vẽ họa tiết trên giấy, trên lụa (kiểu in xăng - xin) và in mực các bản khắc trên đá. Tất cả các cách thức đó đã dần dần dẫn đến sự hoàn thiện các phương pháp cơ khí trong việc nhân bản và cuối cùng là kỹ thuật ấn loát. Việc in bằng chữ rời xuất hiện vào khoảng giữa Thế kỷ VI và in màu xuất hiện vào khoảng đầu Thế kỷ XII. Con chữ lúc đầu được làm bằng đất nung, nhưng chỉ ít lâu sau người ta dùng các chất liệu khác như gỗ, kim loại và cả sứ nữa.

Vì chữ Trung Quốc bao gồm một lượng con chữ rất lớn cho nên mãi tới gần đây, việc in sách, người ta vẫn thường in bằng ván khắc nhiều hơn là bằng chữ rời. Khắc ván in đơn giản, rẻ tiền hơn, lại dễ bảo quản để sử dụng cho việc tái bản. Chừ rời hầu như chỉ được dùng để in những bộ sách lớn và in với số lượng lớn. Dù sao chăng nữa thì cả ván khắc lẫn chữ rối cũng đã dần dần nhường chỗ cho máy in hiện đại, kể từ giữa Thế kỷ XIX.

Những điều kiện tiên quyết để cho những phát minh ra đời và trở thành đắc dụng, thường bao gồm những sự chuẩn bị cả về mặt vật chất lẫn tinh thần: ngoài óc sáng tạo và nhu cầu rộng lớn, còn phải có những vật liệu chuyên dùng và kỹ thuật cơ sở thiết yếu ở Châu Âu cũng như ở Trung Quốc, đều có đủ cơ sở vật chất cần thiết cho sự xuất hiện nghề in; nhưng tại sao phát minh này lại ra đời ở Trung Quốc trước tiên?

Nghề in xuất hiện sớm ở Trung Quốc chủ yếu là do phát minh ra giấy và các kỹ thuật nhân bản bằng con đấu và bôi quét do nhu cầu to lớn đối với việc nhân bản các văn bản viết bằng thứ chữ biểu ý phức tạp, việc chuẩn hóa các văn bản Khổng giáo dùng cho việc thi cử tuyển dụng quan lại và cuối cùng là do nhu cầu to lớn về những văn bản Phật giáo không thể chép tay xuể. Ở phương Tây, giấy xuất hiện khá muộn con dấu không được coi là một phương tiện nhân bản, kỹ thuật in bằng bôi quét được biết đến khá muộn; trong khi đó, những người làm nghề in lại phải chịu nhiều sự ràng buộc hạn chế của phường hội. Cuối cùng, với hệ thống chữ cái Latinh tương đối đơn giản, yêu cầu nhân bản nhanh chóng bằng cơ khí rõ ràng cũng kém phần gay gắt. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho phát minh ra nghề in đã không được phát triển hoặc đã không mở đường cho phát minh này. Ngoài ra, hoạt động tôn giáo ở Châu Âu cũng không tạo ra nhu cầu sản xuất với số lượng lớn những văn bản Kinh kệ thư hoạt động Phật giáo ở Trung Quốc. Về mặt này, ở Châu Âu thời đó, những người làm nghề chép sách cũng đủ sức đáp ứng nhu cầu. Đến giữa Thế kỷ XV, những nhân tố trên đây thay đổi hoàn cảnh xã hội Châu Âu trở nên chín muồi cho việc ''phát minh'' ra nghề in.

Cuối Thế kỷ XV và đầu Thế kỷ XVI, nghề in tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và lưu hành sách với số lượng lớn và giá rẻ, do đó đã gây được ảnh hưởng đáng kể đối với tư tưởng và đời sống xã hội Châu Âu. Nó góp phần phổ biến và cổ vũ tinh thần Phục hưng Cải cách, qua đó đẩy mạnh việc sản xuất giấy và các nguyên vật liệu cho ngành in, cuối cùng đưa tới sự phồn vinh của kỹ nghệ ấn loát.

Sách in cũng đã hỗ trợ cho việc phát triển ngôn ngữ và văn học dân tộc, tăng cường ý thức dân tộc, dân chủ hóa việc giáo dục học hành, xóa bỏ nạn mù chữ và các hàng rào xã hội. Nói tóm lại, hầu như mọi tiến bộ của nền văn minh hiện đại đều qua cách này hay cách khác, gắn bó với sự ra đời và phát triển của nghề in ở Châu Âu.

Việc in ấn hàng loạt đã tăng cường khả năng bảo tồn lâu dài các văn bản lưu truyền cho các thế hệ đời sau, giảm bớt nguy cơ mất mát tiêu vong bởi sự thờ ơ quên lãng hoặc do các sưu tập riêng lẻ bị phá tán. Nhưng không chỉ có thế việc phổ cập các ấn phẩm và diện quần chúng độc giả thế tục được mở rộng - các luật sư, thương gia, người buôn bán nhỏ, thợ thủ công trở thành những người tiêu thụ sách quan trọng - đã là sự tuyên chiến với độc quyền về tri thức của giôi giáo sĩ. Đồng thời, văn chương tôn giáo, cho tới lúc đó vẫn chiếm giữ địa vị ưu thế, đã dần dần bị thay thế bởi sách của các tác giả mang tư tưởng nhân văn trước sự hoan nghênh của giới độc giả mới mẻ. Độc giả mới, đề tài mới, tất cả những cái đó đã thúc đẩy những người có học dễ dàng phát hiện những chỗ mâu thuẫn trái ngược trong các văn bản tôn giáo, từ đó nảy sinh sự thẩm duyệt lại các quan điểm cũ và mở đường cho những tiến bộ mới trong tri thức.

Sự chuẩn hóa của các ấn phẩm tương phản với những sai lệch không thể tránh khỏi của các văn bản chép tay. Máy in không loại bỏ được hết khả năng sai sót trong các văn bản, nhưng việc đọc nhiều lần những bản in thử trước khi đưa in chính thức và khả năng lập một bảng đính chính những chỗ sai sót sau khi in xong làm cho việc in ngày càng chặt chẽ hơn. Mặt khác, những người làm nghề xuất bản đầu tiên; đồng thời cũng là những người làm nghề in, đã tính toán một cách hợp lý khuôn khổ cuốn sách, điều mà những người chép sách trước không hề nghĩ đến. Sự tính toán này cũng đã hỗ trợ cho thói quen suy nghĩ có hệ thống ở người đọc cũng như việc tổ chức sắp xếp kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Các nhà xuất bản cố nhiên hoan nghênh việc dùng ngôn ngữ bản địa, vì điều này sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sách. Một khi sách được xuất bản bằng tiếng nước nhà, chúng sẽ góp phần to lớn vào việc chuẩn hóa và định hình hóa ngôn ngữ (về các mặt chính tả và từ vựng, từ pháp và cú pháp, chấm câu,v.v…); và hơn nữa, sẽ mở rộng việc sử dụng thứ ngôn ngữ đó. Việc phát hành rộng rãi những cuốn tiểu thuyết in trên máy đầu tiên đã tăng cường tính ưu việc của ngôn ngữ phổ thông bình dân, và điều này đã mở đường cho sự phát triển của văn học và văn hóa dân tộc.

Việc phổ cập giáo dục và xóa bỏ nạn mù chữ cũng gắn bó với những tiến bộ của nghề in. Sách bán giá rẻ và dễ kiếm sẽ cho phép đông đảo người đọc tìm đến với những kiến thức đã được in ra, và điều này cuối cùng sẽ tác động đến nhân sinh quan của họ đối với Thế giới xung quanh và vị trí của họ trong xã hội. Và, lẽ tự nhiên, ấn phẩm dễ kiếm sẽ làm tăng thêm số người biết chữ; và ngược lại, nhu cầu đối với sách vở cũng do đó mà tăng thêm lên.

Nhìn chung, nghề in đã phát triển rầm rộ vào đầu Thế kỷ XVI ở tất cả các nước Châu Âu, đã hỗ trợ cho nhiều đổi thay mạnh mẽ và căn bản trong lĩnh vực tư tưởng và xã hội. Trái lại, ở Trung Quốc cũng như ở các nước Á Đông khác, sự tiến triển của ngành in diễn ra tương đối phẳng lặng với ít nhiều cải biến nhẹ nhàng trong khuôn khổ một truyền thống ổn định. Sự khác biệt này phản ánh những khác biệt tồn tại giữa hai nền văn hóa Đông và Tây, đặc biệt là trong quan niệm về cuộc sống vật chất. Xã hội Trung Quốc bị đặt dưới ách thống trị của truyền thống Khổng giáo trong một thời gian rất dài. Người ta chỉ quan tâm đến việc xác định mối quan hệ thích đáng giữa người với người, một trật tự xã hội lý tưởng thông qua việc giáo huấn luân lý đạo đức hơn là theo đuổi những tiến bộ vật chất và sự thay đổi một cách căn bản cuộc sống xã hội. Sự phẳng lặng nổi bật trong cuộc sống xã hội và văn hóa tồn tại qua một thời gian khá dài trong lịch sử Trung Quốc, đặc biệt là từ đầu Thế kỷ III cho tới Thế kỷ XIX; tương phản rõ rệt với tình hình luôn luôn sôi động của cuộc sống và tư tưởng trong cùng thời gian lịch sử ấy ở phương Tây.

Những bối cảnh khác nhau như vậy ở Trung Quốc và ở phương Tây cố nhiên đã ảnh hưởng tới vai trò của nghề in; và với ý nghĩa này, nghề in không chỉ chịu sự chi phối của các điều kiện chính trị xã hội mà chính nó đã tác động lại những điều kiện này một cách tương ứng.

G.S.TSIEN TSUEN - HSUIN[1]




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/157-02-633386018674687500/Lich-su-Nghe-in-va-Xuat-ban/Nghe-in-va-doi...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận