NGHỀ IN
In lồi
In lồi hay in tipô là kỹ thuật in lâu đời nhất và là kỹ thuật duy nhất trực tiếp dùng chữ in. Việc in được thực hiện bằng chữ kim loại đúc hoặc bản in mà mặt in trồi lên. Mực ở lô mực chỉ bắt vào phần trồi lên và hình ảnh có mực đó được truyền trực tiếp lên giấy. Trên đây là sơ đồ vận hành của một loại máy in tipô phẳng có ống in.
Thư viện các tu viện có những tờ in được in ở Thế kỷ IX và X trên hình trồi lên, tức là trên những tấm gỗ khắc. Từ 1041 đến 1048, một nghệ nhân Trung Quốc tên là Tất Thắng dùng chữ in rời bằng đất nung để in các văn bản in giấy và năm 1403, một xưởng in. Triều Tiên đã dùng chữ in bằng đồng.
Từ 1436 đến 1444, Johannes Gensfleisch Zum Gutenberg người Tỉnh Mainz ở Đức sáng chế ra đồng mô, tức khuôn đúc chữ và phương pháp in bằng chữ kim loại rời. Phương pháp ấy được sử dụng không mấy thay đổi chỗ đến Thế Kỷ XX.
Gutenberg khắc trên một tấm kim loại rất cứng mỗi ký hiệu in (chữ, dấu và ngắt câu), rồi dùng tấm đó rập lõm vào một khuôn bằng kim loại mềm hơn dùng làm khuôn đúc ra hàng loạt chữ bằng hợp kim chì, thiếc và antimoan. Những chữ in ấy được xếp vào các ô của hộp chữ và sẽ được người thợ sắp chữ nhặt lên sắp bằng tay. Để in, Gutenberg làm một bàn ép gỗ vặn vít điều khiển bằng tay giống như cái bàn ép nho trong sản xuất rượu vang. Mực in của ông một hỗn hợp muội gỗ thông và dầu gai, dùng nùi da phết lên bề mặt in. Giấy được thấm ướt trước khi để dễ ăn mực.
Không lấy làm lạ là cuốn sách đầu tiên được Gutenberg in là cuốn Phúc âm, tác phẩm được yêu cầu nhiều nhất thời đó. Cuốn Phúc âm 42 dòng gọi như vậy do một cột có 42 dòng - được in 200 bản tại Mainz từ năm 1452 đến 1455. Những chữ đầu mục và hình trang trí được thêm vào sau bằng tay vì về hình dạng của chữ và sắp trang, Gutenberg vẫn trung thành với truyền thống sách chép tay thời Trung cổ.
Nghề in phát triển rất nhanh chóng trên toàn Châu Âu. Người đã có nhiều cố gắng để nâng cao hiệu quả của bàn in là Withelm Haas, một người đúc chữ ở Bâle (Thụy Sỹ) đã dựa theo kiểu bàn in gỗ để chế tạo chiếc bàn in tay đầu tiên hoàn toàn bằng kim loại vào năm 1787, nhờ đó nâng cao được chất lượng in.
Ngay từ đầu Thế kỷ XVII, người ta đã nghĩ đến việc dùng một ống lăn thay cho bàn ép để đỡ tốn sức; nhưng mãi đến năm 1811, người thợ sắp chữ kiêm nhà sáng chế Đức Friedrch Koenig mới được cấp bằng sáng chế cho chiếc máy in ống tự động chạy bằng hơi nước đầu tiên của mình. Đến năm 1818, nghề in có thêm một tiến bộ nữa với chiếc máy in hai ống của Koenig và người cộng sự của ông là Andreas. Bauer, in được lần lượt cả hai mặt giấy trong cùng một lần đưa giấy vào máy.
Năm 1844, Richard Hoe nhận bằng sáng chế tại Mỹ cho chiếc máy in ống đầu tiên, trong đó mặt in bằng kim loại được cuộn tròn quanh thành ống chứ không để phẳng. Năm 1866 John Walter, chủ tờ báo Times (Thời báo) ở London sử dụng chiếc máy in ống đầu tiên in giấy cuộn chế tạo theo mẫu của Mỹ do Jeptha Wilkinson sáng chế cho phép in tới 14.000 bản một giờ.
In lõm
Phương pháp này xuất phát từ kỹ thuật khắc đồng, tức là dùng một dụng cụ cắt gọt hay một thứ AXít ăn mòn kim loại khắc bằng tay lên một tấm đồng mài phẳng rồi đặt mực vào những chỗ lõm trên tấm đồng đó. Người thợ kim hoàn kiêm họa sĩ và thợ khắc Thụy Sỹ Urs Graf (khoảng 1485 - khoảng 1527) là tác giả của những bản khắc Axít đầu tiên được biết. Những bản khắc ấy ban đầu được in bằng tay, sau đó người ta thay bằng một ống khắc lõm và giấy cuộn chạy qua giữa ống in đó và ống ép. Phương pháp ấy rất được ưa chuộng để in vải ở Thế kỷ. XVIII và năm 1783, một người thợ khắc đồng Anh là Thomas Bell chế tạo ra chiếc máy in nhiều màu dùng để in vải. Năm 1860, Auguste Godchaus, một nhà xuất bản ở Paris được cấp bằng phát minh cho chiếc máy in cuốn lõm in được cả hai mặt.
Năm 1878, họa sĩ kiêm nhà nhiếp ảnh và họa sĩ đồ họa Tiệp Khắc Karl Klietsch đảo lộn các kỹ thuật in lõm với một phương pháp khắc bằng nhiếp ảnh lên giấy than: thuật in ảnh ra đời. Từ ngày đó, hàng triệu ấn phẩm có tranh ảnh minh họa đã được in theo phương pháp này. Năm 1908, hai người Đức giàu kinh nghiệm trong việc in trên vải là Ernests Rolffs và Eduard Mertens sáng chế ra chiếc gạt mềm bằng kim loại để gạt bỏ mực thừa trên mặt in. Sau đó, kỹ thuật khắc chìm bầng điện tử đã cải tiến rấtnhiều kỹ thuật in ống lõm.

In phẳng
Nguyên lý in litô đã được nhà viết kịch Tiệp Khắc Aloys Sennefelder tìm ra một cách ngẫu nhiên năm 1796. Khi tìm kiếm một phương pháp ít tốn kém để in các tác phẩm của mình, ông nảy ra ý viết lên một tấm đá mài mịn và lợi dụng lực đẩy nhau giữa nước và mực dầu nhờn. Thoạt tiên, những hình in được vẽ trực tiếp bằng tay lên một bản đá và in bằng một máy ép tay. Hình được in khi ta dùng một cái gạt để gạt và ép tờ giấy vào bản đã được trà mực. Nhờ việc chế tạo ra máy in litô phẳng của Georg Sigl, tại Berlin năm 1851, phương pháp này đã được cơ khí hóa và kỹ thuật in litô một màu hoặc nhiều màu giữ vị trí quan trọng, đặc biệt trong việc in bao bì.
Ngay từ năm 1805, Sunnefelder đã tìm cách thay bản đá bằng một mặt in nhẹ hơn; nhưng phải đợi đến năm 1904, Ira W.Rubel và Caspar Herman ở New Jersey (Mỹ) mới sáng chế ra tấm kim loại mỏng manh hình in. Trên bản in này, sau khi những phần không chứa nước được thấm mực, hình ảnh được chuyền lên một ống bọc cao su rồi từ đó in lên giấy. Phương pháp in gián tiếp này gọi là in offssét: Việc bản in, bản cao su và giấy đều được đặt trên những ống tròn cho phép ngay từ đầu đạt được tốc độ in cao.
Ở những máy in offssét đầu tiên việc thấm với bản in có nhiều vấn đề khó khăn nên hình ảnh in ra thường xỉn và nhòe. Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, chất lượng in và độ ăn mực đã được nâng cao rõ rệt nhờ những cải tiến về kỹ thuật in và những loại mực và giấy thích hợp hơn.
Ngày ray, những dây chuyền in cuốn offssét lớn điều khiển bằng điện tử gồm nhiều máy đặt nối đuôi nhau, có thể in đồng thời hai mặt giấy, in tờ rời hay giấy cuộn, với tốc độ 30.000 vòng một giờ.