Tài liệu: Chữ viết - chữ ghi ý - chữ ghi âm

Tài liệu
Chữ viết - chữ ghi ý - chữ ghi âm

Nội dung

CHỮ VIẾT – CHỮ GHI Ý – CHỮ GHI ÂM

 

Có thể nói, mọi hệ thống chữ viết đã được biết đến đều thoát thai từ hình vẽ. Chữ viết đầu tiên của loài người chỉ chú ý ghi lại nội dung ý nghĩa của từ ngữ chứ chưa quan tâm đến vỏ âm thanh của từ ngữ. Thí dụ, muốn ghi từ núi, người Trung Quốc Cổ xưa “viết”

Người Ai Cập Cổ đại viết: 

Để biểu thị ý niệm trên, dưới, có nghĩa là muốn ghi từ trên hoặc dưới, người Trung Quốc Cổ đại viết:

Những chữ như vậy thuộc loại chữ ''ghi ý'' hoặc ''diễn ý” (Còn gọi là chữ tượng hình).

So với biện pháp ''vẽ hình'' thì việc sử dụng chữ ghi ý là một bước tiến, trước hết là ở chỗ loại chữ này gắn bỏ với từ ngữ, một đôi một. Tuy vậy, chữ ghi ý vẫn bộc lộ những nhược điểm như sau:

1) Xã hội phát triển, ngôn ngữ phát triển theo; từ cần ghi ngày càng nhiều, đến mức khó mà ''vẽ chữ'' cho kịp.

2) Nhiều từ mang ý nghĩa nội hàm phong phú, phức tạp, chữ ghi ý khó lòng biểu thị hết được những ý nghĩa đó. Thậm chí có khi tỏ ra là bất lực, không thể thực hiện được chức năng ghi ý của mình.

3) Chữ ghi ý được thể hiện theo kiểu “vẽ chữ” như vậy, vẫn có thể tạo ra hiện tượng mỗi người “vẽ chữ” một kiểu, mỗi người hiểu ''chữ được vẽ ra'' một kiểu: đưa đến sự lầm lẫn, không rõ ràng chính xác trong giao tiếp thông tin.

Để khắc phục những nhược điểm này, một mặt người xưa đã cố gắng đơn giản hóa và cách điều hòa đến cao độ những chữ được viết ra theo kiểu “vẽ chữ” ấy, cung cấp cho chúng một hình thể cố định, thống nhất. Thí dụ, để ghi từ Sơn có nghĩa là núi, đầu tiên người Trung Quốc vẽ , sau đó “viết”  , cuối cùng xác định cách viết thống nhất thống nhất , (Sơn = núi). Mặt khác, cùng với đà phát triển mọi mặt của xã hội, trong đó có sự nhận thức sâu hơn về bản chất của ngôn ngữ, người xưa đã biết lợi dụng hiện tượng đồng âm trong ngôn ngữ, để mượn chữ này ghi lại từ kia. Thí dụ, trong ngôn ngữ Hán, từ chỉ con bò cạp vạn (đọc theo âm Hán Việt) được ghi lại bằng một chữ kiểu vẽ hình - ghi ý:  (mà hiện nay viết là ). Trong ngôn ngữ Hán cũng lại có một từ khác nữa, âm cũng là Vạn, nhưng nghĩa lại là mười ngàn (10.000). Người Hán đã từng vạch một nét để ghi từ nhất có nghĩa là một (1), vạch hai nét để ghi từ nhị, có nghĩa là hai (2) , nhưng một vạn bằng mười ngàn (10.000), chẳng lẽ lại vạch tới 10.000 nét để làm chữ, ghi từ vạn. Do đó, để tiện cho việc ghi chép, người Trung Hoa Cổ đại đã mượn luôn chữ vốn được dùng để ghi từ vạn là con bò cạp làm chữ để ghi từ Vạn = 10.000. Quả thực đó là một biện pháp hết sức đơn giản và thuận tiện. Dựa trên biện pháp này, người xưa có thể có rất nhiều chữ ghi nhiều từ khác nhau (miễn là chúng có quan hệ đồng âm) mà không cần phải ''vẽ'' thêm chữ nữa.

Để hạn chế sự lầm lẫn, tăng cường tính minh xác rõ ràng của chữ viết, người xưa dùng những ký hiệu bổ sung (biểu đạt ý nghĩa của từ) ghép âm vào những chữ được ''vay mượn'' theo quan hệ đồng âm như trên. Thí dụ, trong ngôn từ Ai Cập Cổ đại, từ mer có nghĩa là cái cày, được ghi lại bằng một chữ  hình vẽ - ghi ý như sau:  (hình cái cày, vẽ đơn giản nhất). Nhưng trong ngôn ngữ Ai Cập cũng còn có nhiều từ khác nhau nữa, cũng có âm là mer, mang nhiều nghĩa khác nhau như: mer = con mắt, mer = con rắn v.v. . . Để ghi lại từ mer với nghĩa con rắn, người Ai Cập Cổ đại ''vẽ'' chữ  (vốn là chữ biểu thị cái cày, có âm đọc là mer, đồng âm với từ mer có nghĩa là con rắn). Người đọc gặp chữ sẽ tùy văn cảnh mà hiểu chữ đó là cái cày hay là con rắn. Và sau để tránh nhầm lẫn, người Ai Cập Cổ đại dùng chữ có có thêm  (hình cái mồm, ngụ ý âm đọc) để ghi từ mer có nghĩa là cái cày: và chữ (thêm hình con rắn vẽ cách điệu) để ghi từ mer với nghĩa là con rắn. Và cũng như vậy,  từ có âm đọc mer với nghĩa con mắt, sẽ được viết thành.

Như vậy là từ chỗ dùng hình vẽ đã biểu đạt nội dung ý nghĩa thông tin, rồi đùng chữ hình vẽ để biểu đạt nội dung ý nghĩa từ ngữ; người xưa đã tiến tới chỗ sáng chế ra chữ ghi âm (chữ ghi lại nghĩa của từ) và trên cơ sở này đã tiến dần đến chỗ sáng chế ra chữ ghi âm (chữ ghi lại âm thanh của từ). Chữ ghi âm ghi ngôn từ một cách giản tiện hơn là, chữ, hình vẽ - ghi ý, không cần phải tạo ra thêm nhiều chữ để đuổi theo số lượng từ cần ghi. Những chữ ghi âm buổi đầu như thế này đều ghi trọn vẹn cả, một âm tiết (thí dụ như âm vạn, âm méo . . .) cho nên gọi là chữ ghi âm tiết.

Đối với những từ nhiều âm tiết (đa âm tiết), tình hình có phức tạp hơn. Thí dụ, ngôn ngữ Cổ Ai Cập, từ Khesteb có nghĩa là Phalê; đó là một từ đa âm tiết, gồm: khes teb. Để ghi lại từ đa âm tiết này, người ta cũng vận dụng cách thức đã dùng khi ghi âm của từ một âm tiết (đơn âm tiết, như vạn hoặc mer). Trong ngôn ngữ Cổ Ai Cập, có một từ, âm là khest, có nghĩa là lôi kéo, được ghi lại bằng chữ hình vẽ - ghi ý (hình một người đang làm động tác lôi kéo) và một từ nữa, có âm là teb, có nghĩa là con lợn được ghi lại bằng chữ hình vẽ - ghi ý (hình con lợn). Kết hợp hai chữ hình vẽ ghi ý đó lại với nhau, người ta tạo ra được một chữ ghi âm, đọc là Khesteb với nghĩa: pha lê (xem hình vẽ).




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/156-02-633386012707968750/Chu-viet---Mot-trong-nhung-thanh-qua-lon-l...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận