TỪ CHỮ GHI ÂM (ĐƠN ÂM TIẾT, ĐA ÂM TIẾT)
ĐẾN BẢNG CHỮ CÁI A, B, C
Những chữ ghi âm ghi lại vỏ kết cấu âm thanh của từ, hoặc đơn âm tiết, hoặc đa âm tiết như đã giới thiệu ở trên. Đó là cái mốc lớn đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình sáng chế chữ viết của nhân loại. Tuy nhiên, loại chữ này vì còn quá gắn chặt với hình vẽ, nhiều khi còn quá chi tiết rườm rà, không tiện sử dụng. Nhu cầu phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội đòi hỏi người xưa phải có những cải tiến sâu sắc hơn nữa chữ viết theo hướng đơn giản, tiện dụng. Người Ai Cập Cổ đại cũng đã đạt được những thành quả xuất sắc về mặt này. Trong chữ hình vẽ - ghi ý Cổ Ai Cập có chữ đọc là pi, có nghĩa là cái ghế hoặc chỗ ngồi. Dần dần, chữ này được dùng để ghi các âm tiết pa, pe, pi, po, pu . . . Sau đó, nó được quy định chỉ dùng để ghi một âm tố ''p'' mà thôi. Chữ hình vẽ - ghi ý
với âm đọc là id, nghĩa là bàn tay, sau đó, nó được quy định chỉ dùng để ghi một âm tố “t” hay ''đ'' mà thôi. Cứ dần dà như vậy, cuối cùng, người Ai Cập Cổ đại đã xây dựng được một hệ thống 24 con chữ; ghi lại các phụ âm trong ngôn ngữ Cổ Ai Cập, và được dùng song song với hệ thống chữ viết hình vẽ - ghi ý.
Đáng tiếc, sáng chế này không được người Ai Cập đương thời quan tâm cải tiến phát triển. Khoảng 2000 Tr.CN , người Sémites, và sau đó là người Phénicie - những tộc người sống trong khu vực ven Hồng Hải và Địa Trung Hải đã tiếp thu thành quả sáng tạo lớn lao này của người Ai Cập Cổ đại; cải tiến bổ sung thêm, tạo ra những con chữ ghi âm tố làm cơ sở cho sự xuất hiện hệ thống chữ cái A, B, C . . . rất quen thuộc đối với chúng ta ngày nay. Có thể nêu chữ A làm thí dụ:
Chữ A có lẽ bắt nguồn từ chữ hình vẽ - ghi ý Cổ Ai Cập (xem hình vẽ) với nghĩa là con bò hoặc gia súc lớn.


Vào khoảng 2000 năm Tr.CN, những người Sémites đã mượn chữ hình vẽ - ghi ý này, đơn giản hóa hình thể của nó đến mức cao độ, biến thành
để biểu thị âm tố ''a'' - âm tố đứng đầu của từ aleph trong ngôn ngữ Sémites có nghĩa là con bò. Sau đó, người Canaan, người Phénicie (đều là những tộc người nói tiếng Sémites) lại đơn giản hóa thêm nữa hình thể của con chữ này thành
Người Hy Lạp Cổ xưa đã mượn con chữ này để ghi âm ''a'' trong tiếng Hy Lạp, viết thành
hoặc
một dạng thức thuần ký hiệu, thoát ly hoàn toàn hình vẽ đầu tiên. Cuối cùng, người Rôman đã tiếp thu con chữ này của người Hy Lạp. Sau nhiều lần cải biến, chữ A của bảng chữ cái Roman, mà chúng ta quen gọi là chữ cái La Tinh, đã có hình dạng như ngày nay.
Như vậy, chữ A - một chữ cái (ký hiệu ghi âm tố, chữ ghi âm tố) rất quen thuộc đối với chúng ta ngày nay cũng thoát thai từ hình vẽ, từ chữ vẽ hình – ghi ý (chữ tượng hình). Bước đường diễn biến của nó đã thể hiện gần đúng quá trình phát triển của hầu hết các hệ thống chữ viết trong Thế giới Cổ đại: từ chỗ là hình vẽ với số lượng có thể là vô hạn, biểu thị một nội dung ý nghĩa của từ ngữ tiến tới chỗ hình thành một hệ thống ký hiệu đơn giản, hoàn chỉnh; với một giới hạn nhất định về mặt số lượng, ghi lại một cách khá trung thực và uyển chuyển mặt âm thanh của từ ngữ.
Một cộng đồng người trong Thế giới Cổ đại nói chung đều biết dùng hình vẽ để biểu đạt thông tin, và đây là cơ sở để họ có thể tiến tới sáng tạo ra chữ viết. Nhưng, do nhiều lý do khách quan và chủ quan, chỉ có một số khu vực trong Thế giới Cổ đại được ghi nhận là nơi chốn sinh thành và phát triển của những hệ thống chữ viết đầu tiên của loài người. Trong đó có thể kể vùng Trung Cận Đông, vùng Lưỡng Hà, vùng Trung Mỹ, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc Cổ đại. Từ những trung tâm này, chữ viết - thành quả văn hóa lớn lao của khu vực đã sớm lan tỏa đi các nơi thiếu nhiều phương thức khác nhau; được các cộng đồng người ở các khu vực khác nhau trên toàn Thế giới lựa chọn, tiếp nhận, cải biến, nâng cao, biến nó thành công cụ phụ trợ đắc lực cho hoạt động ngôn ngữ nói của mình. Nhiều hệ thống chữ viết ghi lại những ngôn ngữ khác nhau của cộng đồng nhân loại đã nối tiếp nhau xuất hiện. Hệ thống chữ viết được sử dụng rộng rãi nhất là hệ thống chữ cái ghi âm tố A, B, C...

GS. ĐẶNG ĐỨC SIÊU