NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHỮ IN Ả RẬP
Chữ Ả Rập xuất hiện lần đầu tiên trong một cuốn sách in năm 1185 khi một tu sĩ dòng Đôminích tên là Martin Roth in tại xưởng in Erhard Reuwich ở Mainz. Đó là cuốn truyện kể nổi tiếng Cuộc hành trình và hành hương hải ngoại đến mộ Chúa Jésus tại Thành phố Thánh Jérusalem. Berhard von Breydenbach đã viết và ghi lại bằng tiếng Latinh. Trong cuốn sách đặc sắc ấy, câu chuyện kể được xen kẽ thắng cảnh miêu tả phong tục và đời sống đô thị, một điều rất mới mẻ đối với thời bấy giờ. Erhard Reuwich có lẽ đã vẽ và khắc các bản in trong cuốn sách này, trong đó còn in một bảng chữ cái Ả Rập đầy đủ kèm theo cách đọc bằng tiếng Latinh, bản đồ Jérusalem và một bức khắc đẹp vẽ những người Liban (được gọi là người Syrie) trong một vườn nho, đầu quấn khăn tuyệt đẹp.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là một bảng chữ cái. Phải nhờ đến cuộc chinh phục Granada ở Tây Ban Nha mấy năm sau, ở Châu Âu người ta mới thấy cần phải in một văn bản dầy dặn hơn bằng tiếng Ả rập. Sau sự hợp nhất bằng hôn nhân của hai hoàng gia ở Castilla và Aragon, Vương quốc Hồi giáo cuối cùng là Andalucia thuộc về các nhà Vua Thiên chúa giáo Tây Ban Nha Ferdinand và Isabella năm 1492. Muốn đưa người dân Andalucia trở lại Đạo Kitô, các Quốc vương Tây Ban Nha Ferdinand và Isabella ra lệnh cho các nhà truyền bá Phúc âm trong nước này. Người ta thấy ngay là không thể đạt được mục đích ấy nếu không dùng tiếng Ả Rập. Năm 1505, Tổng giám mục Fernando de Talavera, vị chức sắc đầu tiên được bổ nhiệm cai quản giáo khu mới này, đã cho in hai cuốn sách dạy tiếng Ả Rập cho các nhà truyền giáo chưa nói được tiếng Ả Rập. Cuốn thứ nhất nhan đề Arate para ligeramente saber lalengua araviga (Cách học những điều sơ đẳng của tiếng Ả Rập). Cuốn thứ hai nhan đề Vocabulista aravigo en letra castellana (Từ vựng Ả Rập bằng chữ Castilan). Tác giả là học giả Pedro de Alcalá, người gốc thành phố Đại học nổi tiếng Alcalá de Henares gần Madrid. Ông biên soạn bằng cách phiên âm tiếng Ả Rập bằng chữ Latinh. Sách được in bằng kiểu chữ Gothique.
21 trang đầu cuốn sách Arte nói về ngữ pháp, 27 trang sau in những bài Kinh Kitô giáo bằng tiếng Ả Rập, những điều chỉ dẫn về lễ xưng tội bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ả Rập, Kinh thường kỳ và lễ nguyện bằng tiếng Ả Rập. Ở đầu phần từ vựng có chỉ dẫn ngắn độ ba trang, giải thích cách phiên âm của tác giả: từ vựng được xếp theo thứ tự vần chữ cái, nhưng mỗi vần gồm ba mục riêng; mục thứ nhất là động từ, thứ hai là danh từ, cuối cùng là trạng từ, liên từ và giới từ. Đông từ được ghi ở thời hiện tại, thời hoàn thành và thể mệnh lệnh. Danh từ được ghi ở số ít và số nhiều.
Tác phẩm này, lý thú đối với cả việc nghiên cứu ngôn ngữ học lẫn lịch sử nghề in; nó còn là cuốn sách đầu tiên và có lẽ là dễ hiểu nhất tìm cách phiên âm tiếng Ả Rập sang chữ Latinh. Chữ cái viết ở trang 20 là chữ cái Bắc Phi, viết dưới dạng hơi khác; và thứ tiếng được dạy trong hai cuốn sách của Pedro de Alcalá, là thứ tiếng thông dụng mà các nhà truyền giáo Tây Ban Nha cần dùng để trao đổi với người cải tạo. Ở đôi chỗ, tác giả chỉ rõ sự khác biệt giữa tiếng đó với ngôn ngữ viết.
Cũng như trong cuốn sách của Breydenbach, chữ Ả Rập được ghi cùng với cách đọc bằng tiếng Latinh; nhưng được chuyển ngữ theo chữ viết Bắc Phi mà ta sẽ lại được thấy trong các tác phẩm tuyệt vời Psalterium Hebraeum, Graecum, Arabicum, et Chaldaicum của Agostino Giustiniani. Cuốn sách Thánh thi đầu tiên in bằng nhiều thứ tiếng, xuất bản năm 1516 tại Genoa (khi ấy là một trung tâm ấn loát và sản xuất giấy quan trọng). Năm thứ tiếng được in trong cuốn sách là Hébreuse, Hy Lạp, Ả Rập, Canđê (một dạng của tiếng Xiriác) và Latinh.
A Gostino Giustiniani (1479 - 1536) là người thuộc chi vùng Genoa của dòng họ Giustiniani, một trong những dòng họ lớn ở Miền Bắc Italia. Là một giáo sĩ dòng Đôminích trở thành Giám mục Nebbio trên Đảo Corse; ông là một học giả có tiếng về các ngôn ngữ phương Đông, thường giao du với các nhà nhân văn lớn như Picodella Mirandola, Erasmus và Huân tước Thomas More.
Giustiniani đã tiến hành một công trình táo bạo là in sách Phúc âm bằng các thứ tiếng Hébreuse (Hêbrơ), Hy Lạp, Ả Rập, Xiriac và Latinh; giúp cho người ta được biết và so sánh các dạng bản khác nhau của sách Phúc âm và đồng thời dùng làm công cụ học tập các thứ tiếng đó. Ông bắt đầu bằng cuốn sách Thánh thi nhưng do không thành công về mặt thương mại nên công trình này đã bị bỏ dở. Dẫu vậy, đó cũng là một thành tựu hết sức xuất sắc đối với thời bấy giờ.
Công việc chuẩn bị cho tác phẩm đồ sộ này là một nhiệm vụ vất vả và lâu dài, như chính lời Giustiniani ghi trong lời đề tặng cho Giáo hoàng Leon X, người viết lời tựa: ''Chúng tôi đã làm việc trong một thời gian dài...”. Thực vậy, hồi bấy giờ không có khuôn đúc hay đồng mô bằng chữ Ả Rập. Các chữ cái trong các cuốn sách của Breydenbach và Pedro de Alcalá được in bằng các bản khắc gỗ và khi ấy rất hiếm chữ in Hébreuse. Cuối cùng, còn phải cần đến công sức của nhiều người sửa bài dùng được ba thứ tiếng không phải là tiếng Châu Âu.
Hình như ngay từ năm 1506, Giustiniani đã đặt in và phiên âm các văn bản sẽ xuất bản. Nhưng điều đó có nhiều khả năng hơn là việc vẽ và đúc chữ đã được thực hiện từ lâu trước ngày xuất bản cuốn sách Thánh thi; và như vậy là văn bản in đầu tiên bằng chữ in Ả Rập rời đã có từ trước nữa.
Riêng văn bản bằng tiếng Ả Rập đã chiếm một cột dài 41 dòng, mỗi trang trung bình có 160 từ và có 143 trang. Hai chữ đầu mục rất đẹp: chữ ''aleph'' vẽ hoa trong một cái khung và chữ ''tah'' cũng được trang trí tương tự. Đó chắc chắn là những chữ đầu tiên có hình trang trí trong chữ in Ả Rập.
Đến năm 529, Georffroy Tory nhà ấn loát, khắc chữ kiêm nhà văn Pháp người gốc Bourges xuất bản một cuốn khái luận rất hay về nghề in tipô nhan đề Le Champfleury, trong đó, ông phản đối việc dùng kiểu chữ Gothique và đưa vào những chữ cái Ả Rập kèm theo phần phiên âm. Trong khi đó, các bản tiếng Đức, Latinh và Tây Ban Nha của Breydenbach và bản dịch tiếng Pháp của Nicolas le Huen thường xuyên lấy lại bảng chữ cái Ả Rập của lần xuất bản 1486; cũng như tác phẩm của Sébastien Mamerot nhan đề Những cuộc hành trình hải ngoại của nhà quý tộc Godefroy de Bouillon từng làm Vua Jérusalem viết về nhà Vua nhân từ Saint Louis và nhiều vương công đức hạnh, xuất bản cuối Thế kỷ XV.
Sau cùng, năm 1538, nhà nhân văn Pháp Guillaume Postel, đi cùng với phái đoàn do Vua Francois I cử đến Constantinople và tự gọi mình là người tứ xứ, như ta ngày nay gọi là ''Công dân toàn cầu”, đã xuất bản tại Paris, cuốn Ngữ pháp Ả Rập - cuốn đầu tiên thuộc loại này được in.
Nhà văn CAMILLE ABOUSSOUAN[1]