Bão Cát Chương 11


Chương 11
Ngày 3 tháng 12, 12 giờ 22 phút trưa Salalah

Safia tỉnh dậy trong một gian xà lim, cảm thấy buồn nôn và mất phương hướng. Xà lim tối om quay như chong chóng khi nàng ngoái đầu lại phía sau. Những tia nắng chiếu qua cái cửa sổ cao có chấn song. Sáng quá đến khô cả người.

Một cảm giác như muốn ói mửa lại trào lên.

Nàng quay sang trái rồi ngẩng đầu lên, cảm thấy đầu mình dường như quá nặng nề đối với đôi vai. Dạ dày như muốn co thắt lại liên tục. Rỗng không. Nàng như muốn nôn ra mật xanh mật vàng khi ngã vật xuống.

Nàng cố hít một hơi thật sâu rồi dần dà những bức tường xem ra không còn xoay nữa.

Nàng nhận ra mồ hôi toát ra khắp người, dính chặt luôn quần áo bằng vải cô-tông mỏng vào ngực và chân. Nóng oi ả. Đôi môi như muốn rộp lên. Mình đã bị đánh thuốc mê bao nhiêu lâu rồi? Nàng nhớ lại gã đàn ông tay lăm lăm cầm kim tiêm. Lạnh lùng, cao lớn, mặc toàn màu đen. Hắn bắt nàng


phải trút bỏ bộ quần áo ướt sũng ngay trên thuyền rồi mặc bộ
ka ki vào.

Cẩn trọng, Safia nhìn quanh một lượt. Gian xà lim có tường đá bao quanh, sàn lát bằng gỗ. Không khí sặc sụa mùi hành khô và những đôi chân bẩn thỉu. Đồ đạc duy nhất là cái giường. Cánh cửa xà lim bằng gỗ sồi đóng chặt và không nghi ngờ gì nữa, nó đã bị khóa.

Nàng nằm yên lặng chừng dăm phút. Đầu óc trống rỗng, hậu quả của thứ thuốc mê chúng đã tiêm cho nàng. Tuy vậy, trong người nàng, nỗi sợ hãi vẫn bao trùm. Nàng ở đây một mình, bị bắt cóc. Còn những người khác đều đã chết cả. Nàng nhớ lại cảnh những ngọn lửa cháy bùng trong đêm, biển động trong cơn bão. Đầu óc nàng như một chiếc máy quay trở lại cảnh trong đêm tối. Tất cả đều có màu đỏ, đau đớn, quá sáng để chớp mắt đi được. Nàng thấy như nghẹt thở, cổ họng khô khốc, muốn khóc nhưng không thể được. Nếu như nàng òa khóc được, chắc sẽ không thể nào dừng.

Cuối cùng nàng cũng ngồi dậy rồi lết chân xuống sàn. Không có gì ghê gớm mà chỉ cảm thấy tức bụng. Nhu cầu sinh lý, một điều nhắc nhở rằng mình còn sống. Nàng đứng lên,run rẩy, một tay dựa vào tường. Tường đá mát dịu thật dễ chịu.

Nàng nhìn chăm chú vào cửa sổ có chấn song. Nhìn tia nắng dọi thẳng vào thế kia lúc này chắc phải giữa trưa. Nhưng là ngày thứ mấy rồi? Mình đang ở đâu? Nàng ngửi thấy mùi biển và cát. Vẫn ở A-rập, đó là cái chắc. Nàng đi ngang xà lim. Bàng quang bỗng thấy nhức nhối lạ thường.

Nàng tập tễnh bước ra cửa, giơ một cánh tay lên. Liệu chúng sẽ lại đánh thuốc mê mình nữa không? Nàng ấn tay vào chỗ tiêm ở cánh tay trái, chỗ bị chúng chọc mũi kim vào. Mình không còn sự lựa chọn nào cả. Không còn sự cẩn trọng. Nàng đập cửa mạnh rồi gọi ầm ĩ. "Này, có ai nghe tôi không đấy?" - nàng nhắc lại bằng tiếng A-rập.

Không ai trả lời.

Nàng gõ mạnh hơn, gõ đến đau cả nắm tay rồi lan sang cả vai. Nàng thấy mình rất yếu, bị mất nước. Liệu có phải chúng tính giam nàng ở nơi này cho đến chết không?

Cuối cùng cũng thấy có tiếng bước chân. Một vật gì nặng đập vào cửa gỗ làm cánh cửa mở toang ra. Nàng thấy mình đối mắt với gã đàn ông lúc nãy. Gã cao hơn nàng hẳn một cái đầu, mặc áo sơ mi đen và quần jean. Nàng ngạc nhiên khi thấy đầu gã trọc lốc, nàng không còn nhớ điều đó. À lúc đó gã đội chiếc mũ đen. Nhưng nàng không thể quên được đôi mắt đó, xanh lơ, và lạnh lùng, không có chút biểu hiện gì, không ham hố gì. Một đôi mắt của loài cá mập.

Nàng run rẩy khi gã nhìn nàng, cái nóng nực trong phòng bỗng nhiên biến đâu mất.

"Cô tỉnh lại rồi à, gã nói, đi theo tôi."

Safia nghe thấy có chút âm hưởng người Úc trong giọng của hắn, nhưng đã mờ nhạt sau bao nhiêu năm sống xa nhà. "Ở đâu... tôi muốn dùng toilet."

Gã chau mày rồi bước đi. "Hãy theo tôi".

Gã dẫn nàng tới một phòng tắm nhỏ. Trong đó có xí bệt, tắm sen và một cái chậu rửa hoen ố với cái vòi nước rỏ tong tỏng. Safia chui vào. Nàng lấy tay giữ cánh cửa, không biết mình có được ở một mình không.

- Đừng có lâu quá đấy. - Gã nói, rồi kéo cánh cửa khép vào.

Một mình, nàng lục soát xem có vũ khí hay có cách gì để thoát không. Một lần nữa, cái cửa sổ duy nhất cũng có chấn song. Nhưng ít nhất nàng cũng nhìn được thành phố nhỏ ở phía dưới, nằm ngay cạnh biển. Những cây cọ và các tòa nhà màu trắng trải dài từ chỗ nàng đang đứng đến mép nước. Về phía bên trái, một dãy chợ lều phủ mái tôn. Và ở phía xa, những vạt màu xanh bên ngoài thành phố chắc là những đồn điền chuối, đu đủ, mía và dừa.

Nàng biết nơi này.

Thành phố vườn của Oman.

Salalah.

Đó là thủ phủ của tỉnh Dhofar, chính là điểm đến của con tàu Shabab Oman. Đó là một miền đất trù phú màu xanh với những thác nước và sông suối nuôi sống những đồng cỏ. Chỉ có nơi này trên đất Oman, gió mùa thổi vào đất liền đem theo những cơn mưa, thường nhè nhẹ rải đều và sương mù quanh năm ở vùng núi ven biển bên cạnh. Nó có một hệ thời tiết riêng biệt không giống những nơi khác trong vùng Vịnh, một cảnh sắc ở nơi gieo trồng những cây hương liệu, nguồn của cải lớn từ thời trung cổ. Sự giàu có ở đây đã cho ra đời những thành phố
huyền thoại như Sumharam, Al Balid và cuối cùng là thành phố chết Ubar.

Vậy tại sao những kẻ bắt cóc lại đưa nàng tới đây?

Nàng bước tới toilet rồi ngồi phịch xuống. Sau khi rửa tay nàng nhìn vào gương, thấy hiện lên một khuôn mặt hốc hác, đôi mắt thâm quầng.

Nhưng nàng vẫn còn sống.

Có tiếng gõ ở cửa.

- Xong chưa?

Cũng chẳng việc gì nữa, Safia bước ra mở cửa.

Gã kia gật đầu.

- Đi theo lối này.

Gã rảo bước, chả buồn nhìn lại với vẻ rất tự tin đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Safia bước theo. Nàng chẳng còn sự lựa chọn nào nhưng đôi chân lết đi đầy tuyệt vọng. Nàng bị dẫn xuống một đoạn cầu thang ngắn, dọc theo một sảnh khác. Những gã khác, bộ mặt lầm lì, súng đeo vai đứng sau cánh cửa hoặc đứng gác. Cuối cùng họ cũng tới một cánh cửa cao.

Gã gõ cửa rồi ẩn mạnh vào.

Safia thấy căn phòng được bày biện rất sơ sài: một cái thảm trơ trụi màu sắc hoen ố với thời gian, một ghế sô pha, hai ghế gỗ cứng. Hai chiếc quạt chạy vù vù, phe phẩy không khí. Một chiếc bàn kế bên xếp đầy vũ khí, thiết bị điện tử và một chiếc máy tính xách tay. Một đường dây cáp chạy ra phía cửa sổ kề bên dẫn đến một cái chảo vệ tinh nhỏ hướng lên trời.

- Xong rồi đấy, Kane. - Người đàn bà nói, bước ra từ chỗ chiếc máy tính.

- Đại úy. - Gã kia gật đầu rồi bước ra ngoài, khép cửa lại.

Safia toan lao tới giật một những khẩu súng để trên bàn nhưng biết rằng mình còn quá yếu, không đủ sức với tới chỗ đó.

Người đàn bà quay lại chỗ nàng. Ả mặc toàn đồ đen, áo phông, khoác ngoài bằng một chiếc sơ mi dài tay không cài khuy xắn lên tận khuỷu. Safia cũng nhìn thấy nòng súng màu đen thò ra từ ổ súng đeo bên thắt lưng ả.

- Mời ngồi xuống. - Ả ra lệnh rồi chỉ vào một chiếc ghế gỗ.

Safia chầm chậm ngồi xuống.

Ả đàn bà kia vẫn đứng, đi đi lại lại dọc theo ghế sô pha.

- Tiến sỹ al-Maaz, hình như danh tiếng của cô là chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ trong vùng đã thu hút được sự chú ý của cấp trên của tôi.

Safia thấy không thể hiểu được lời nói của ả. Nàng thấy mình nhìn chăm chú vào khuôn mặt ả, mái tóc đen và cặp môi. Đó chính là người đàn bà đã định giết nàng tại Bảo tàng Anh, đạo diễn vụ giết Ryan Fleming và thảm sát các bạn nàng đêm qua. Những khuôn mặt, hình ảnh cứ như hiện lại trong đầu óc nàng, làm Safia không chú ý đến lời nói của ả.

- Cô có nghe không đấy, Tiến sỹ al-Maaz?

 

Nàng không thể trả lời. Nàng tìm kiếm nét tinh quái trong ả đàn bà này với khả năng tàn bạo và man rợ đến vậy. Một vài dấu vết, vài vết sẹo, một sự hiểu biết nào đó. Không thấy gì. Sao lại thế nhỉ?

Có tiếng thở dài thốt ra từ phía ả. Ả bước tới sô pha rồi ngồi xuống, khuỷu tay đặt lên đầu gối.

- Painter Crowe. - Ả nói.

Cái tên không hề được nghĩ tới làm Safia giật mình, một cơn giận dữ bùng cháy trong cô.

- Painter... từng là đồng nghiệp của tôi.

Sốc và không thể tin được làm Safia bối rối. Không...

- Tôi biết là cô rất chú ý. - Một thoáng hài lòng hiện lên đôi môi ả. - Cô cần biết sự thật. Painter Crowe đang lợi dụng cô. Tất cả bọn cô. Không việc gì phải đặt các vị vào sự hiểm nguy như vậy. Giữ bí mật.

- Cô đang bịa đặt. - Cuối cùng nàng cũng thốt ra một câu từ đôi môi nứt nẻ.

Người đàn bà ngồi tiếp xuống sô pha.

- Tôi chả việc gì phải nói dối cả. Không giống như Painter, tôi sẽ nói với cô sự thật. Cái mà cô tình cờ gặp phải, phát hiện ra bằng sự không may và cơ hội, giữ một chìa khóa có thể dẫn đến một loại năng lượng chưa được biết đến.

- Tôi chả hiểu cô đang nói điều gì cả.

- Tôi đang nói về chất phản vật chất.

Safia chau mày trước sự thật không thể bác bỏ từ những điều đang nghe. Ả đàn bà tiếp tục giải thích về vụ nổ ở Bảo tàng, phát xạ, việc tìm kiếm nguồn đầu tiên của một hình thức ổn định của chất phản vật chất. Mặc dù nàng rất muốn bác bỏ nhưng nhiều điều xem ra lại có ý nghĩa. Những tuyên bố của Painter, một số đồ đạc của anh ta và áp lực của chính phủ
Hoa Kỳ.

 

- Mẩu thiên thạch đã phát nổ tại Bảo tàng. - Ả tiếp tục. - được biết là đứng gác những lối vào thực sự của thành phố chết Ubar. Đó chính là nơi cô sẽ dẫn chúng tôi tới.

Nàng lắc đầu, như sự từ chối.

- Tất cả những điều đó thật hoang đường.

Ả đàn bà nhìn hồi lâu rồi đứng dậy đi lại trong phòng. Ả lôi ra một vật gì đó trong đống thiết bị. Khi ả quay lại, Safia nhận ra chính là chiếc va li của mình.

Ả ấn nút mở chiếc cặp. Quả tim bằng sắt nằm ngay bên trong chỗ xốp màu đen. Nó ánh lên dưới ánh nắng mặt trời
rực rỡ.

- Đây là cổ vật mà cô phát hiện. Bên trong một bức tượng có niên đại từ 200 năm trước Công nguyên. Với cái tên Ubar được khắc ở mặt ngoài.

Safia chậm rãi gật đầu, ngạc nhiên trước sự hiểu biết tường tận của ả. Hình như ả biết tất cả mọi thứ về cô.

Ả cúi xuống rồi đưa một thiết bị cầm tay lên bề mặt cổ vật. Bỗng nhiên nó nổ lốp bốp nhè nhẹ.

- Nó phát ra một tín hiệu phóng xạ ở mức độ cực kỳ thấp. Rất khó phát hiện được. Nhưng cũng giống như hiện tượng sao chổi nổ. Thế Painter đã bao giờ nói với cô chưa?

Safia nhớ lại Painter cũng đã thử cổ vật đó cũng với thiết bị tương tự. Liệu có thật không? Một lần nữa sự tuyệt vọng lại làm nàng đau nhói.

- Chúng tôi cần cô tiếp tục làm việc cho chúng tôi. - Ả đàn bà nói, đóng cái cặp lại. - Để hướng dẫn chúng tôi tới những cánh cổng đã mất của Ubar.

Safia nhìn trân trối vào cái cặp đã được đóng lại. Tất cả những sự đổ máu, những cái chết... đều liên quan đến phát hiện của nàng. Một lần nữa.

- Không, tôi không thể. - Nàng lẩm bẩm.

 

- Cô phải làm, nếu không sẽ chết.

Safia lắc đầu rồi nhún vai. Nàng chả quan tâm. Tất cả những gì nàng yêu mến đều đã bị tước đi khỏi nàng. Bởi người đàn bà này. Nàng sẽ không bao giờ giúp đỡ bọn chúng.

- Chúng tôi sẽ tiến hành dù có cô hay không. Có những chuyên gia khác trong lĩnh vực của cô. Và tôi có thể biến giờ phút cuối cùng thành không vui nếu như cô từ chối.

Điều đó đã buộc nàng phải mỉm cười. Không vui ư? Sau tất cả những gì nàng đã trải qua... Safia ngẩng đầu lên rồi nhìn thẳng vào mặt ả lần đầu tiên, một nơi mà bấy lâu nay nàng vẫn ngại không dám nhìn vào. Đôi mắt không lạnh lùng như của gã dẫn nàng vào đây. Chúng bừng lên với sự giận dữ được cất giấu kỹ... nhưng đồng thời cũng có cả sự bối rối. Một cái chau mày làm đôi môi ả như mỏng đi.

- Hãy làm việc cô cần phải làm. - Safia nói, nhận ra quyền lực trong sự tuyệt vọng của chính mình. Người đàn bà này không thể động đến nàng, làm hại nàng. Họ đã mất rất nhiều trong đêm qua. Chả còn lại gì để có thể động chạm và làm hại mình nữa. Cả hai đều biết được sự thật đó vào lúc này.

Một thoáng băn khoăn hiện lên trên khuôn mặt người đàn bà kia.

Ả cần mình. Safia biết chắc như vậy. Người đàn bà đã nói dối về việc có thể tiếp cận với những nhà khoa học khác. Ả chả có thể kiếm được ai. Ánh thép chạy qua con người nàng, làm quyết tâm của nàng vững thêm, thiêu cháy nốt chút tàn dư còn lại của thuốc mê.

Một lần trước đây, một người đàn bà đã bước từ một nơi nào đó vào cuộc đời của nàng, một quả bom gắn vào ngực, được kích động với sự cuồng điên tôn giáo đã cướp đi cuộc sống của bao người không thương tiếc. Tất cả đều hướng về Safia.

 

Người phụ nữ đó đã chết trong vụ nổ diễn ra ở Tel Aviv. Sau đó, Safia không bao giờ có thể đối mặt với ả và buộc ả phải chịu trách nhiệm. Thay vì vậy, nàng lại nhận tội lỗi về mình. Nhưng lại còn hơn thế nữa, Safia đã không bao giờ có thể trả thù cho những cái chết nằm ngay dưới chân để xóa sạch tội lỗi
của mình.

Điều đó không đúng sự thật.

Nàng đối mặt với kẻ bắt cóc mình, không rời mắt khỏi ả.

Nàng đã nhớ mình ước gì có thể ngăn chặn người đàn bà đó ở Tel Aviv, gặp cô ta trước đó để ngăn cản vụ nổ và những cái chết. Liệu những điều cô ta nói về nguồn gốc chất phản vật chất có đúng không? Nàng hình dung vụ nổ ở Bảo tàng Anh, một hậu quả. Liệu có một ai đó giống như người phụ nữ này làm với năng lực như vậy không? Bao nhiêu người sẽ chết?

Safia không thể để điều đó xảy ra.

- Thế tên cô là gì?

Câu hỏi làm kẻ bắt cóc giật mình. Phản ứng đó làm nàng cảm thấy hài lòng, sáng rực rỡ như mặt trời, đau đớn nhưng
thỏa mãn.

- Cô nói rằng cô sẽ nói thật với tôi.

Ả chau mày nhưng chậm rãi trả lời.

- Cassandra Sanchez.

- Cô sẽ làm gì với tôi, Cassandra? - Safia cảm thấy vui thú khi thấy vẻ bực bội trong cái nhìn của ả với việc nàng dùng tên thân mật của ả. - Nếu như tôi hợp tác.

Người đàn bà đứng dậy, vẻ bực bội.

- Trong vòng một giờ nữa, chúng ta sẽ rời đến mộ Imran, nơi mà quả tim của pho tượng được tìm thấy. Nơi cô dự kiến sẽ dẫn những người khác tới. Đó là nơi chúng ta sẽ bắt đầu.

Safia đứng dậy.

- Còn câu hỏi cuối cùng.

 

Ả nhìn nàng phân vân.

- Cô làm việc cho ai? Hãy nói cho tôi biết điều đó, tôi sẽ hợp tác.

Trước khi trả lời, ả đàn bà bước tới cửa, mở nó ra rồi vẫy người trợ lý của ả nhận tù binh. Ả nói từ ngoài cửa.

- Tôi làm việc cho chính phủ Mỹ.

 

 

1 giờ 1 phút chiều

 

Cassandra chờ cho đến khi Safia bước ra ngoài và cánh cửa khép lại. Ả đá mạnh cái sọt đựng giấy đan bằng lá cọ vào góc nhà, làm những mẩu rác tung tóe trên sàn. Một lon pepsi lăn lông lốc tới tận chân ghế sô-pha rồi dừng lại. Đồ chó cái...

Ả phải cố gắng kìm nén, tránh bị thêm những cơn kích động mới vì giận dữ. Người đàn bà đó xem ra đã bị suy sụp. Nhưng cuối cùng ả không thể hình dung về sau cô ta lại trở nên quỷ quái như vậy. Ả như đọc thấy sự chuyển đổi về cán cân quyền lực trong đôi mắt của người phụ nữ đó mà không sao ngăn lại được. Vì sao điều đó lại xảy ra được?

Ả nắm thật chặt đôi bàn tay rồi lại duỗi ra và thả lỏng cơ bắp cánh tay. "Đồ chó cái". Ả lẩm bẩm từ góc phòng. Nhưng ít ra thì cô ta cũng đã chịu hợp tác. Đó là một thắng lợi mà chắc chắn làm ả thỏa mãn. Vị bộ trưởng chắc cũng sẽ hài lòng.

Tuy nhiên, cơn giận vẫn làm cho ruột gan ả như rối tung lên, khiến ả ở trong một tâm trạng chán chường. Người đàn bà đó mang trong mình nhiều sức mạnh hơn là ả tưởng. Ả bắt đầu hiểu ra vì sao Painter lại quan tâm đến cô ta.

Painter...

Cassandra hắt ra một tiếng thở dài. Xác của anh chưa bao giờ được tìm thấy. Nó làm cho ả chưa thật yên tâm. Nếu như...

 

Một tiếng gõ cửa làm ngắt quãng dòng suy nghĩ của ả. John Kane đẩy cửa bước vào trước khi ả kịp quay lại. Ả thực sự bực bội trước sự xâm phạm trắng trợn riêng tư và thiếu tôn trọng đối với mình.

- Bữa trưa đã sẵn sàng cho người tù. - Gã nói. - Cô ta sẽ sẵn sàng vào 14 giờ.

Cassandra bước tới cái bàn để các thiết bị điện tử.

- Vậy thiết bị hoạt động ra sao?

- Đang phát tín hiệu rất tốt. Tín hiệu rõ và mạnh.

Đêm qua, sau khi người tù bị đánh thuốc mê, chúng đã cấy một con chíp vi mạch vào dưới giữa khoảng hõm trên vai của cô. Cũng y trang như thiết bị mà họ phải cấy vào lưng của Zhang trong phi vụ ở Mỹ. Cassandra thấy phải hết sức cảm ơn Painter vì anh đã tạo ra mẫu mã cho hoạt động này. Con chíp vi mạch hoạt động như một máy phát tín hiệu từ cơ thể của nạn nhân khi họ di chuyển trên đường phố. Chúng có thể theo dõi hoạt động của cô ta trong phạm vi 10 dặm. Bất cứ âm mưu lẩn trốn nào sẽ bị phát hiện kịp thời.

- Được rồi. - Ả nói. - Anh nói tất cả mọi người sẵn sàng đi.

- Họ đã xong rồi.

Kane như nhại lại mệnh lệnh của ả, nhưng thực ra nếu phi vụ này không thành công thì gã cũng mất đầu như chơi.

- Thế có tin tức gì từ chính quyền địa phương về vụ tàu bị đánh chìm đêm qua không?

- CNN buộc tội những kẻ khủng bố chưa biết danh tính. - Gã tỏ ra bực bội.

- Thế còn những người sống sót thì sao, có tìm thấy xác không?

- Chắc chắn là không còn ai sống sót. Công tác cứu hộ chỉ mới bắt đầu để xem xét nguyên nhân và đếm xác.

 

- Thôi được rồi. - Ả nói. - anh hãy tập họp người của mình sẵn sàng đi. Anh được tự do.

Chớp chớp mắt, gã xoay người lại rồi bước ra khỏi phòng, khép cửa lại phía sau nhưng không đẩy mạnh. Ả phải bước theo rồi ấn chốt lại. Chiếc khóa cạch một tiếng.

Kane, ngươi hãy cứ liệu hồn đấy...

Thở dài bực bội, ả bước tới chiếc ghế sô pha rồi ngồi xuống mép ghế. Không còn ai sống sót. Ả hình dung Painter, nhớ lại đêm đầu tiên anh khuất phục trước đòn tiến công của ả, sự quyến rũ được dàn cảnh rất công phu. Nụ hôn đầu tiên của họ. Môi của anh mang vị ngọt của cốc vang họ uống tại bữa tối. Cánh tay của anh quanh người ả. Đôi môi của anh... cánh tay chầm chậm trườn xuống chỗ đường cong của bộ mông ả.

Ả phải lấy tay xoa vào chỗ kín của mình khi anh dừng tay lại rồi tựa người trên ghế, không quyết tâm như lúc nãy. Ả thấy bực bội hơn là thỏa mãn đối với phi vụ đêm qua. Càng bực bội hơn. Và ả biết vì sao. Chỉ đến khi nào ả nhìn thấy thân thể bị chết đuối của anh, tên của anh trong danh sách những người chết được vớt lên từ biển, điều mà ả chưa hề đoan chắc được.

Bàn tay của ả trườn xuống theo hai bên hông rồi ả nhớ lại. Vì sao mọi việc lại trở nên khác biệt giữa hai người. Ả nhắm mắt lại, những ngón tay lần sờ trên bụng, căm ghét chính bản thân mình khi nghĩ ngợi về khả năng.

Painter, mẹ kiếp...

Dù cho ả có thể hình dung ra sao thì chuyện cũng đã kết thúc tồi tệ. Đó chính là điều quá khứ đã dạy cho ả. Đầu tiên là cha của ả... tuồn vào giường ban đêm, bắt đầu từ khi ả mới 11 tuổi, lên cơn nghiền nặng, hứa hẹn, dọa dẫm. Cassandra đành phải lui về đọc sách, dựng lên một bức tường giữa mình và thế giới bên ngoài. Qua sách vở, ả đã biết được chất potasium làm tim ngưng đập ra sao. Không để lại dấu vết. Vào ngày sinh nhật của 17 của ả, người cha được phát hiện ra nằm chết trong cơn nghiền. Không ai để ý một nốt kim tiêm trong số những nốt khác. Nhưng mẹ ả đã nghi ngờ rồi khiếp sợ con gái mình.

Chả còn lý do gì để ở lại gia đình, ả gia nhập quân đội vào năm 18 tuổi, tìm thấy niềm vui trong việc đặt mình trước những thử thách. Rồi lời mời tham gia chương trình rèn luyện xạ thủ của lực lượng đặc biệt. Đó là một vinh dự, nhưng không phải ai cũng nghĩ thế. Tại Fort Bagg, một gã lính đẩy ả vào một thung lũng, định sửa cho ả một trận. Gã đè ả nằm xuống, kéo giật phăng áo sơ mi của ả.

- Cha mày là ai, hả đồ chó cái?

Một sai lầm. Cả hai chân của gã bị gãy. Họ không bao giờ có thể chữa được dương vật của gã. Ả được phép rời quân ngũ chừng nào giữ kín mồm miệng.

Ả luôn giỏi trong việc giữ bí mật.

Sau đó, Sigma tới tuyển mộ, và Hiệp hội. Tất cả trở thành quyền lực. Một cách khác nữa để ả trở nên rắn rỏi. Ả đã nhận lời.

Rồi đến Painter... nụ cười và bàn tay của anh.

Vết thương đi vào bên trong đau nhói. Chết hay còn sống?

Ả phải biết. Trong khi ả biết rằng chỉ đưa ra giả thiết thì phải lên các phương án. Ả đứng phắt dậy rồi bước tới bàn thiết bị. Chiếc laptop vẫn đang mở. Ả kiểm tra tín hiệu hiện ra trên màn hình truyền từ người tù nhân rồi bấm nút định vị GPS. Một hình ba chiều không gian hiện ra, thiết bị định vị, hiển thị bằng một vòng tròn màu xanh dịch chuyển, cho thấy cô ta đang trong xà lim của mình.

Nếu như Painter đang ở ngoài đó, anh sẽ đến tìm cô ta.

Ả nhìn trân trối vào màn hình. Người tù của ả có thể nghĩ mình đang ở thế thượng phong nhưng ả lại có cái nhìn xa hơn.

Ả đã sửa sang đôi chút thiết bị cấy dưới da của Painter bằng mẫu của Hiệp hội. Nó đòi hỏi nâng công suất của pin nhưng một khi đã xong, sự sửa đổi này cho phép có thể kích hoạt bất cứ lúc nào một mẩu thuốc nổ C4 gắn vào đó để làm gãy cột sống của người tù, giết cô ta ngay lập tức.

Nếu như Painter vẫn còn ở ngoài, cứ để mặc anh ta đến đó.

Ả cần chuẩn bị mọi khả năng.

 

 

1 giờ 32 phút chiều

 

Mọi người nằm vật trên cát, mệt thấu xương. Chiếc xe thùng ăn cắp đang nhả khói ở bên con đường hẹp ven biển phía sau họ, nắp ca bô mở tung. Một dải cát trắng chạy theo hình vòng cung, nằm mép những mỏm đá lô nhô nhào ra phía biển. Nó nằm ở một nơi vắng vẻ, hoàn toàn cách biệt bất cứ ngôi làng nào.

Painter nhìn về phía Nam, cố dõi qua đoạn đường dài hơn 50 dặm giữa mình và Salalah. Chắc Safia phải đang ở đó. Anh cầu mong mình tới đó không muộn.

Đằng sau anh, Omaha và ba người lính lực lượng Bóng ma sa mạc đang mải mê tranh luận bằng tiếng A-rập về khoang động cơ của chiếc xe.

Những người khác đi tìm kiếm bóng râm dưới các mỏm đá, nằm bệt xuống cố nghỉ ngơi chút ít sau cả đêm dài đi lại vất vả. Chiếc thùng xe bằng thép chả thể nào tạo cho họ một nơi nghỉ thoải mái trong chuyến đi vật vã qua những đoạn đường ghập ghềnh. Painter cũng ngủ được đôi chút, nhưng anh không dám ngủ sâu mà chỉ là những giấc mơ chập chờn.

Anh lấy tay xoa lên mắt trái, vẫn bị sưng vù giờ đây nhắm nghiền. Vết nhức của nó làm anh tập trung vào tình hình hiện nay của họ. Chuyến đi, tuy liên tục nhưng rất chậm do địa hình và đường sá quá tồi. Giờ đây thì một chiếc dây cu-roa đã bật tung ra.

 

Sự chậm trễ gây nguy hiểm cho tất cả mọi người.

Tiếng bước chân lạo xạo trên cát làm anh quay lại chỗ Coral. Cô đang khoác một chiếc áo choàng rộng thùng thình nhưng lại quá ngắn để lộ cả hai mắt cá chân trần. Mái tóc và khuôn mặt đều lấm lem với những vết dầu từ thùng xe.

- Chúng ta bị chậm mất. - Cô nói.

- Nhưng chậm thế nào? - Anh hỏi.

Coral liếc nhìn đồng hồ, loại dành riêng cho thợ lặn. Cô luôn được đánh giá là một nhà chiến lược và phân tích giỏi nhất của tổ chức.

- Tôi cho rằng nhóm tấn công của Cassandra đã đổ bộ xuống Salalah không muộn hơn giữa sáng nay. Chúng cũng phải lui lại đôi chút để bảo đảm không ai nghi ngờ chúng gây ra vụ đánh bom con tàu Shabab và để kiếm được một nơi ẩn nấp an toàn ở thị trấn.

- Vậy đó là tình huống tốt nhất hay tệ hại nhất?

- Tệ hại nhất là chúng đã tới ngôi mộ cách đây hai giờ. Còn tốt nhất là chúng đang trên đường tới đó.

Painter lắc đầu:

- Không có cửa đó đâu.

- Không, không phải vậy. Mặt khác chúng ta cũng không nên tự đánh lừa mình. - Cô ta nhìn anh. - Nhóm tấn công đã bộc lộ động cơ và tiêu điểm của chúng. Với thắng lợi của chúng ở trên biển, chúng sẽ đi tới với quyết tâm mới hơn. Nhưng cũng còn có một hy vọng.

- Hy vọng gì vậy?

- Mặc dù quyết tâm, nhưng chúng cũng thực hiện với sự cẩn trọng.

Anh chau mày trước câu nói đó.

Coral giải thích:

 

- Trước đây, anh có nhắc đến yếu tố bất ngờ. Nhưng thực ra thì sức mạnh lớn nhất của chúng ta không phải nằm ở điều đó. Từ chỗ hồ sơ tôi nghiên cứu về đại úy Sanchez, thì thấy cô ta không phải là người chấp nhận sự mạo hiểm. Cô ta tiến hành như thể dự đoán sẽ có sự truy đuổi.

- Điều đó có lợi cho chúng ta. Nhưng tại sao?

- Khi người ta luôn quay đầu nhìn về phía sau, họ luôn bị
hở sườn.

- Cô thật uyên bác, Novak.

Cô nhún vai.

- Mẹ tôi theo đạo Phật.

Anh liếc nhìn cô. Câu nói của cô nặng trịch nên anh cũng không hiểu cô đang nói đùa hay thật.

- Được rồi, - Omaha gọi khi có tiếng động cơ khùng khục rồi nổ. Dù tiếng nổ to hơn lúc trước nhưng nó bắt đầu chạy.

- Mời mọi người lên xe!

Có vài tiếng phản đối nho nhỏ khi mọi người đứng dậy từ trên cát.

Painter trèo lên phía trước Kara, rồi kéo cô lên. Anh để ý cánh tay cô run rẩy.

- Cô có sao không?

Cô ta rút cánh tay mình ra, nắm vào cánh tay kia, tránh cặp mắt của anh:

- Tôi ổn thôi. Chỉ thấy lo lắng cho Safia.

Cô ta tìm thấy một chỗ có bóng râm ở cuối xe.

Những người khác cũng bắt chước. Ánh nắng mặt trời đã bắt đầu thiêu đốt thùng xe.

Omaha nhảy lên phía sau trong khi anh chàng khổng lồ Barak đóng sập nắp ca-bô xuống. Người anh ta đầy dầu mỡ, từ lông mày đến các ngón tay.

 

- Anh đã làm nó chạy được rồi. - Danny nói rồi véo tay ông anh, đôi mắt nheo lại.

 Cậu ta đã đánh rơi mất cặp kính cận trong vụ nổ. Đối với anh chàng trẻ tuổi này, điều đó quả là một lời giới thiệu nghiệt ngã đối với thế giới A-rập, nhưng xem ra cậu ta chịu đựng được.

- Liệu động cơ có chạy nổi tới Salalah không?

Omaha nhún vai, nằm ập xuống thùng xe bên cạnh cậu em.

- Chúng tôi vá víu tạm. Cố chằng giữ dây cu roa. Động cơ có thể bị quá tải, nhưng chúng ta chỉ còn phải đi chừng 50 dặm nữa thôi. Hy vọng sẽ đến được.

Painter mong rằng mình có thể chia sẻ sự lạc quan với anh ta. Anh kiếm một chỗ ngồi giữa Coral và Clay. Chiếc xe chồm lên phía trước làm tất cả bọn nhao lên, chú ngựa cũng thở phì phì. Móng chân nó đạp đạp lên thùng xe. Từng đám khói cuồn cuộn khi chiếc xe leo trở lại con đường đá dẫn tới Salalah.

Khi mặt trời chiếu sáng như soi vào từng khuôn mặt, Painter cố nhắm mắt để khỏi bị chói. Không thể nào ngủ được, anh lại tiếp tục nghĩ vẩn vơ về Cassandra. Anh lần lại những kỷ niệm trong ký ức với người đồng nghiệp cũ: những buổi trao đổi về chiến lược, họp trong công sở và biết bao nhiêu phi vụ. Trong những vấn đề đó, Cassandra đều chứng minh cô là một đối thủ ngang tầm với anh. Nhưng anh lại mụ mị về tài hóa trang của cô ta cũng như thói quen máu lạnh của cô. Về điểm này, cô ta đã vượt anh, trở thành một điệp viên giỏi hơn trên thực địa.

Anh ngẫm nghĩ về những lời nói của Coral lúc nãy. Khi một ai đó phải nhìn lại về phía sau lưng mình, anh ta dễ bị hở sườn. Liệu anh có phạm phải điều đó không. Kể từ vụ tấn công thất bại ở Bảo tàng, anh đã rất tỉnh táo về quan hệ trong quá khứ của mình với Cassandra, sự tập trung của anh vào cô ta đã không mang lại sự cân bằng giữa quá khứ và hiện tại. Ngay cả trong trái tim anh cũng vậy. Có phải chính điều đó đã làm anh mất cảnh giác khi ở trên tàu Shabab Oman không? Một vài niềm tin nào đó vào cái thiện tận cùng của Cassandra? Nếu anh có cảm tình với cô ta, phải có điều gì thực sự giữa hai người.

Giờ thì anh đã hiểu rõ hơn.

Có tiếng lầu bầu kéo sự chú ý của anh khỏi thùng xe. Clay giằng lấy áo khoác để che người. Trông anh ta như một người
A-rập nghèo với nước da xanh nhớt, mái tóc đỏ cạo trọc và đôi tai cụp. Anh ta bắt gặp đôi mắt của Painter.

- Anh nghĩ gì vậy? Liệu chúng ta có tới đó đúng giờ không?

- Tôi không biết. - Painter nghĩ rằng lúc này nên nói thật.

 

 

2 giờ 13 phút

 

Safia ngồi trên băng ghế sau của chiếc xe Mitsubishi. Ba chiếc xe khác giống y chang chạy nối đuôi, tạo thành một đoàn xe đi viếng ngôi mộ cha của Đức bà Mary tên là Nabi Imran.

Nàng ngồi thẳng cứng người. Chiếc xe toát lên mùi mới toanh từ đệm xe bọc da màu đen thẫm, ánh bạc ti-tan từ các phụ kiện, đèn trần màu xanh nhạt - thật tương phản với tình cảnh ăn mặc rách rưới của người hành khách. Và nàng cũng không thể đổ lỗi cho màn sương mù đỏ quạch về hậu quả của các viên thuốc an thần. Thay vì đó, đầu óc nàng vẫn rối mù quanh cuộc nói chuyện vừa rồi với Cassandra.

Painter...

Anh ấy là ai nhỉ? Làm sao mà trước đây anh ấy lại là cộng sự với ả? Điều đó có nghĩa gì? Nàng cảm thấy tổn thương từ bên trong, đau đớn tận xương khi nàng hình dung ra nụ cười, bàn tay nhẹ nhàng của anh chạm vào nàng như muốn trấn an. Liệu anh ấy còn che giấu điều gì nữa? Nàng cố gạt đi sự lúng túng của mình, hiện chưa thể đối mặt với nó vội, và cũng không hiểu vì sao nó ảnh hưởng đến mình nhiều đến thế. Họ mới chỉ biết nhau thôi mà.

Thay vì đó, nàng hướng suy nghĩ của mình vào những lời bình phẩm phiền toái khác của Cassandra. Làm sao mà cô ta lại có thể làm việc cho chính phủ Mỹ được. Liệu có thể như vậy không? Mặc dù Safia rất biết về bản chất đôi khi tàn bạo của chính sách đối ngoại Mỹ, nhưng nàng không thể hình dung ra rằng các nhà làm chính sách Mỹ lại có thể hỗ trợ cho cuộc tấn công này. Ngay cả những gã dưới quyền Cassandra cũng có cái vẻ mặt cô hồn như tụi lính lê dương. Đứng gần chúng làm nàng sởn cả gai ốc. Chúng không phải là những người lính Mỹ thông thường.

Và rồi còn có một gã tên là Kane, luôn mặc đồ đen nữa. Nàng đã nhận ra chất giọng Queensland của hắn. Một người Úc. Gã lái xe, chân đi ủng. Những góc cạnh quá sắc nét, trông như bực tức. Câu chuyện về gã là thế nào nhỉ?

Người đi cùng xe với nàng ngồi ngay bên cạnh. Cassandra ngắm nhìn cảnh vật bên đường, bàn tay đặt trên đùi. Giống như những khách du lịch khác, trừ việc ả mang theo ba khẩu súng. Cassandra đã giơ chúng cho nàng xem. Một lời cảnh báo. Một đeo trên vai, một khẩu ở sau lưng và khẩu nữa buộc vào cổ chân. Safia nghi ngờ ả còn có thứ vũ khí thứ tư nữa giấu đâu đó.

Bị giữ chặt, nàng chẳng còn cách gì hơn là ngồi yên.

Khi họ đi tới trung tâm Salalah, Safia ngó nhìn vào sơ đồ đường đi của chiếc xe. Họ đã vòng qua một tổ hợp nghỉ mát bờ biển Salalah Hilton rồi cắt ngang xa lộ, hướng tới một khu vực bên trong thành cổ, khu vực Al Quaf, nơi khu mộ của Nabi Imran đang chờ họ.

Không còn xa nữa. Salalah là một thị trấn nhỏ, chỉ cần vài phút là có thể đi ngang từ bên này sang bên kia. Những điểm hấp dẫn chính của thành phố lại nằm ở ngoại thành, trong những kỳ quan thiên nhiên: bãi biển cát đẹp tuyệt vời Mughsal, phế tích cổ Sumhuran, những đồn điền màu mỡ phát triển như nấm sau những cơn mưa gió mùa. Và xa hơn một chút là dãy núi Dhofar màu xám đứng sừng sững như một phông nền, một trong những nơi ít ỏi trên trái đất người ta trồng các giống hương liệu quý.

Safia ngây ra ngắm nhìn những dãy núi mờ sương, nơi chứa đựng những điều bí mật và của cải vĩnh hằng. Mặc dù dầu hỏa đã thay thế hương liệu trở thành nguồn thu nhập chính làm giàu cho Oman, nghề làm hương liệu vẫn tiếp tục thúc đẩy kinh tế địa phương của Salalah phát triển. Những chợ trời làm cho cả thành phố sực mùi hương với đủ các chủng loại. Nơi đây là trung tâm hương liệu của cả thế giới. Tất cả các nhà thiết kế hàng đầu đều bay tới đây để lấy mẫu hàng.

Cũng giống như trong quá khứ, hương liệu vẫn là báu vật thực sự của đất nước này, thậm chí vượt qua cả vàng. Buôn bán hương liệu quý đã thúc đẩy hoạt động thương mại của Oman, đưa những thuyền buồm của Oman tới những vùng xa xôi như Jordan, Thổ Nhĩ Kỳ, thậm chí còn tới tận châu Phi. Những con đường trên bộ, con đường hương liệu đã trở thành một huyền thoại. Những phế tích cổ xưa nằm rải rác dọc theo con đường, bí hiểm và lạ lẫm, những câu chuyện về chúng đã hòa quyện với các tôn giáo Do Thái,Thiên Chúa và Hồi giáo. Địa điểm nổi tiếng nhất là Ubar, thành phố với một nghìn cây cột, do tổ tiên của những người Noah sáng lập, một thành phố đã trở nên giàu có nhờ vai trò chủ chốt cung cấp nước ngọt cho những đoàn lạc đà đi ngang qua sa mạc.

Giờ đây, hàng nghìn năm sau, Ubar lại trở thành trung tâm của quyền lực. Máu đã đổ để phát hiện, tìm tòi những bí mật của nó, khai quật trái tim của nó.

Safia phải cố gắng không ngoái nhìn qua vai mình chiếc va li màu bạc đặt ở phía sau. Trái tim sắt đã đến từ Salalah, một thứ còn sót lại, một mốc chỉ dẫn tới của cải thực sự của Ubar.

Chất phản vật chất.

 

Liệu có thể như vậy không?

Chiếc xe của họ đi chậm lại rồi quay về phía con đường không được rải nhựa. Họ chạy ngang qua một lô dãy lều ven đường, nằm nép dưới bóng cây cọ, bán quả chà là, dừa và nho. Chiếc xe của họ chạy chậm lại. Safia toan nhảy ra rồi biến đi. Nhưng nàng đã bị cột vào ghế. Bất kỳ cử động nào hòng tháo dây đai sẽ bị chặn ngay.

Rồi còn những chiếc xe chạy phía sau nữa, đầy những kẻ có vũ trang. Một chiếc vòng ở phía sau, còn chiếc kia tiếp tục vòng quanh, có lẽ để chặn hậu phía cuối đường. Safia phân vân về những biện pháp dự phòng. Kane và Cassandra có vẻ như không chỉ lo canh giữ người tù. Nàng biết rằng không có cách nào chạy thoát.

Đó sẽ là cái chết nếu nàng toan trốn chạy.

Một cơn nóng giận ùa lên trong nàng. Nàng không thể hy sinh mình một cách vô ích như vậy. Nàng sẽ chơi trò chơi của chúng nhưng phải đợi cơ hội. Nàng liếc nhìn sang phía Cassandra. Nàng phải báo thù cho các bạn của mình và cho chính mình. Ý nghĩ này đã làm cho nàng bình tĩnh trở lại khi chiếc xe đỗ lại trước cánh cửa sắt.

Lối vào ngôi mộ của Nabi Imran.

- Đừng cố làm chuyện gì cả. - Cassandra cảnh báo như thể ả đã đọc được những suy nghĩ trong đầu nàng.

John Kane nói chuyện với người gác cổng, đầu thò ra ngoài cửa sổ. Một vài tờ giấy bạc Oman được rút ra. Người gác ấn nút rồi cánh cửa mở toang, cho chiếc xe chạy vào trong. Kane đi chậm lại rồi đỗ xe.

Chiếc xe khác chiếm lĩnh vị trí bên kia đường.

Kane thò đầu ra rồi quay lại mở cửa. Trong hoàn cảnh bình thường giống như một hành động ga lăng. Nhưng lúc này, đó chỉ là một sự cẩn trọng. Gã đưa một tay ra đỡ nàng xuống.

 

Safia từ chối, tự mình bước xuống xe.

Cassandra đi vòng phía sau xe. Ả xách theo chiếc va li.

- Bây giờ thế nào đây?

Safia nhìn quanh. Bắt đầu ở đâu bây giờ?

Họ đang đứng ở chính giữa một cái sân lát đá, xung quanh có tường bao bọc và có những mảnh vườn nhỏ. Phía bên kia sân là một ngôi đền thờ nhỏ. Cái mái màu trắng của nó đứng giữa ánh nắng chói chang, ở phía trên nóc là một mái vòm màu vàng. Một cái ban công tròn ở trên đỉnh đánh dấu đó là nơi các tín
đồ cầu nguyện, người Hồi giáo tới cầu nguyện 5 lần trong
một ngày.

Safia cũng cầu nguyện. Sự im lặng là câu trả lời duy nhất của nàng, nhưng lại làm cho nàng thêm vững vàng. Bên trong sân, tiếng động từ thành phố không thể vượt qua được bức tường, như thể dừng lại trước vẻ tôn nghiêm của ngôi mộ nằm trải dài ở một bên: một tòa nhà dài, thấp, có các mái vòm sơn màu trắng viền xanh. Bên trong tòa nhà là ngôi mộ của Nabi Imran, người cha của Đức mẹ Mary đồng trinh.

Cassandra bước lên trước mặt Safia. Sự mất bình tĩnh của ả, năng lực dư thừa làm không gian lay động, để lại phía sau là một câu hỏi:

- Vậy chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?

- Từ đầu. - Safia lẩm bẩm rồi bước lên trước. Họ cần nàng. Mặc dù là tù nhân nàng cũng không phải vội vã. Kiến thức là tấm giáp che chở cho nàng.

Cassandra bước sau nàng.

Safia đi tới lối dẫn vào khu mộ thiêng. Một người đàn ông mặc áo choàng, một trong những người trông coi khu mộ, bước ra gặp họ.

- Salam alaikum.(1) - Ông ta nói.

- Alaikum as salam.(1) - Safia đáp lại.

- Xin lỗi. - Ông ta đáp rồi chỉ tay lên đầu. - phụ nữ không được bước vào mộ mà không choàng khăn trên đầu. - Nói rồi ông ta rút ra hai chiếc khăn.

Safia cảm ơn ông ta rồi nhanh chóng choàng khăn lên. Bàn tay nàng dịch chuyển trong một động tác với vẻ thành thạo tưởng chừng đã mất đi từ lâu. Nàng thấy vẻ hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt ông ta khi phải quay sang giúp Cassandra.

Rồi ông ta bước đi.

- Chúc mọi người bình an! - Sau lời chúc ông ta đi về vị trí của mình, nơi có mái che râm mát.

- Chúng ta cũng phải cởi giày dép ra nữa. - Safia nói, chỉ về phía một hàng giày dép xếp ở phía ngoài cửa.

Chằng mấy chốc, họ bước vào ngôi mộ.

Nơi đây chỉ là một một căn phòng dài, chạy dọc theo chiều dài của tòa nhà. Ở phía cuối là một tảng đá màu nâu sẫm có kích thước như một ban thờ. Hương thắp trên ban thờ được cắm trên hai bát hương bằng đồng, tạo ra mùi vị thoang thoảng ở khu mộ. Nhưng ngôi mộ nằm dưới chỗ đó là nơi thu hút sự chú ý ngay lập tức. Phía giữa tòa nhà là một ngôi mộ cổ bằng đá dài tới 30 mét, nằm nhô cao lên nửa mét so với nền được phủ bằng vải có in những dòng chữ trích từ kinh Coran. Dọc theo ngôi mộ là những tấm thảm dùng để cầu nguyện.

- Quả là một ngôi mộ lớn! - Kane khẽ nói.

Một người cầu nguyện duy nhất đứng dậy từ tấm thảm cầu nguyện, liếc nhìn những người vừa tới rồi im lặng rời khỏi gian phòng. Họ hoàn toàn một mình ở nơi này.

Safia sải bước theo ngôi mộ có phủ vải dài tới 30 mét. Người ta nói rằng nếu như anh đo chiều dài một bên ngôi mộ đá thì sẽ không bao giờ có cùng kích thước ở phía bên kia. Bản thân nàng chưa bao giờ thử kiểm tra điều này.

Cassandra đi sau nàng, nhìn quanh.

- Cô biết gì về chỗ này.

Safia nhún vai khi nàng đi vòng từ cuối ngôi mộ rồi lại quay ngược lại phía tấm bia mộ bằng cẩm thạch.

- Ngôi mộ này đã được tôn thờ từ thời kỳ Trung cổ, nhưng tất cả các thứ xung quanh đều mới! - Nàng nói, chỉ tay về mái vòm và sân phía bên ngoài.

Nàng sải bước tới tấm bia mộ cẩm thạch rồi đặt tay lên trên bề mặt:

- Đây là nơi mà ngài Reginald Kensington đã khai quật pho tượng bằng đá sa thạch có chứa trái tim bằng sắt. Cách đây khoảng 40 năm...

Cassandra tiến lên cùng với chiếc va li nhỏ. Ả cũng đi một vòng quanh bàn thờ đá. Những vệt khói hương ngoằn ngoèo như hình con rắn khuấy động trên lối đi của ả với vẻ tức giận.

- Vậy có phải cha của Đức mẹ đồng trinh Mary vẫn được chôn ở đây không? - Kane cất tiếng hỏi.

- Vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh điều đó.

- Vì sao vậy? - Cassandra hỏi.

- Hầu hết các phái theo đạo Thiên chúa lớn như Cơ đốc giáo, Byzantine, Nestorian, Jacob đều tin rằng cha của Mary là một người đàn ông có tên là Joachim. Nhưng điều đó còn tranh cãi. Kinh thánh Coran lại cho rằng bà xuất thân từ một gia đình có danh vọng ở Imran. Cũng giống như đạo Do thái. Theo các câu chuyện của họ, Imran và vợ mình đã mong ước có một đứa bé, nhưng vợ của ngài lại không sinh nở được. Imran cầu nguyện có một đứa bé trai, mà ngài định hiến tặng cho nhà thờ ở Jerusalem. Lời cầu nguyện của ngài được đáp ứng, vợ ngài bắt đầu có mang nhưng lại là một bé gái. Mary. Tuy nhiên họ vẫn vui mừng và đặt cả cuộc đời của đứa trẻ trong vòng tay màu nhiệm của Chúa.

- Cho đến khi nàng bị đánh gục bởi một thiên thần.

- Đúng vậy, đó chính là điều pha trộn giữa các tôn giáo.

- Thế còn bức tượng, ở phía tấm bia mộ? - Cassandra hỏi, đưa câu chuyện trở về mục đích của họ. - Vì sao nó được đặt
ở đây?

Safia đứng trước tấm bia mộ cẩm thạch rồi cũng nghĩ về câu hỏi đó giống như trong suốt cuộc hành trình của nàng từ London. Tại sao có ai đó lại đặt dấu vết vào Ubar trong một địa điểm dính đến Đức mẹ đồng trinh Mary, một nhân vật mà cả ba tôn giáo đạo Juda, Thiên chúa và Hồi giáo đều kính trọng? Phải chăng vì người ta biết rằng nơi này sẽ được gìn giữ qua năm tháng. Mỗi tôn giáo đều có lợi ích đối với việc giữ gìn ngôi mộ. Không ai có thể tiên đoán rằng Reginald Kensington khai quật pho tượng để bổ sung vào bộ sưu tập ở nước Anh.

Nhưng ai là người đã đưa pho tượng tới ngôi đền này và vì sao? Có phải vì Salalah đánh dấu sự khởi đầu của con đường hương liệu? Và pho tượng là bảng chỉ dẫn đầu tiên dẫn vào trái tim của vùng đất A-rập?

Đầu óc nàng quay cuồng với những viễn cảnh khác nhau: niên đại của pho tượng, những điều bí hiểm xung quanh ngôi mộ, sự tôn kính của các tôn giáo đối với nơi này.

- Tôi cần phải xem lại quả tim. - Nàng nói với Cassandra.

- Vì sao?

- Vì cô nói đúng. Pho tượng đã được đặt ở đây vì một lý do nào đó.

Cassandra nhìn nàng hồi lâu rồi quỳ xuống một trong những tấm thảm cầu nguyện, bật khóa mở va li. Quả tim bằng sát vẫn tỏa sáng bên trong phần bao bọc đen tuyền.

 

Safia bước tới nhấc quả tim lên. Rồi nàng lại thấy ngạc nhiên vì trọng lượng của nó. Có vẻ như nó quá nặng nếu chỉ là sắt. Khi nàng đứng đó, nàng cảm thấy có điều gì đó mơ hồ chuyển động bên trong như thế một dòng chì tan ra chảy bên phía trong quả tim.

Nàng mang nó tới bàn thờ đá cẩm thạch.

- Người ta nói quả tim được đặt ở đây. - Khi nàng quay lại, một vài mẩu hương liệu từ bên trong động mạch của quả tim vung vãi như những hạt muối trên ban thờ.

Safia áp quả tim vào ngực mình, theo đúng vị trí sinh học của nó trong lồng ngực như thể nó đang nằm trong cơ thể nàng. Nàng đứng đó, trên ngôi mộ dài và hẹp rồi hình dung ra pho tượng ở Bảo tàng trước khi vụ nổ xảy ra làm nó tan đi từng mảnh.

Nó cao tới gần 7 fít, một pho tượng được bao bọc, quấn khăn choàng che mặt, rất đặc trưng của những người Bê-đoanh ngày nay. Pho tượng mang trên vai một lư hương dài như thể đang ngắm một khẩu súng.

Safia nhìn xuống những hạt hương liệu cổ xưa. Liệu có phải cũng loại hương liệu đó được đốt ở đây? Nàng vét mấy hạt hương liệu rơi vãi rồi ném chúng vào một bát nước kế bên, cùng với một lời cầu nguyện cho những người bạn mình. Chúng xèo xèo rồi tỏa một mùi hương dễ chịu vào không khí.

Nhắm mắt lại, nàng hít một hơi dài. Không gian tràn đầy mùi hương trầm. Một mùi của quá khứ xa xưa. Khi nàng hít thở, nàng như trở lại thời kỳ khi Đức Chúa ra đời.

Nàng cố hình dung ra cái cây hương liệu cao lớn mất đi từ lâu rồi nơi sản sinh ra thứ hương liệu này. Một thứ cây xù xì với những chiếc lá nhỏ màu xám. Nàng hình dung ra những người cổ xưa thu hoạch lá. Họ là một bộ lạc heo hút sống trên núi, thật hoàn toàn cách biệt và cổ đến nỗi mà ngôn ngữ của họ có trước cả tiếng A-rập cổ xưa. Chỉ có một nhóm ít người bộ lạc còn tồn tại, sống biệt lập tít trên núi cao, kiếm ăn vất vả. Nàng nghe được ngôn ngữ của họ trong đầu, một bài ca giống như của loài chim. Những người này, người Shabra được coi như những kẻ sống sót cuối cùng của những người Ubar, dòng giống những ông cha của họ.

Liệu có phải những người đó thu hoạch nguyên liệu làm hương liệu không?

Khi quá khứ đi vào trong người Safia qua mỗi hơi thở, nàng bỗng thấy mình như đung đưa, căn phòng bỗng nhiên chao đảo dưới chân. Rồi như không nhìn thấy gì, nàng phải đưa tay ra với vội mép ban thờ, cảm giác có cái gì đó lỏng quánh đang chảy ra từ bên trong.

John Kane nắm lấy khuỷu tay nàng, cùi chỏ chạm vào
quả tim.

Nó tuột ra khỏi tay Safia rồi rơi xuống.

Quả tim đập vào mặt ban thờ nghe đánh cạch một tiếng rồi lăn trên mặt đá cẩm thạch, hơi đung đưa như thể chất lỏng tràn ra ngoài bề mặt làm cho nó mất thăng bằng.

Cassandra lao vội ra giữ lấy.

- Không, cứ để vậy đi. - Safia cảnh báo.

Quả tim xoay một vòng rồi dừng lại, chao đảo, lúc lắc nhẹ rồi đứng hẳn lại.

- Đừng chạm vào đó. - Safia quỳ xuống, tầm mắt ngang với mép bàn đá. Mùi hương sực nức không gian.

Quả tim dừng lại đúng ở vị trị nàng đã giữ lại lúc trước, đầu chúc xuống nghiêng về phía tâm nhĩ trái.

Safia đứng dậy. Nàng điều chỉnh cơ thể mình để đúng vào vị trí của quả tim như thể nó đang nằm trong lồng ngực nàng. Một khi vào đúng vị trí, nàng chỉnh lại đôi bàn chân rồi giơ tay, giả sử như đang cầm một khẩu súng vô hình nào trong tay hoặc là cái lư hương dùng trong lễ mai táng.

 

Đứng lặng yên trong tư thế một pho tượng cổ, Safia nhìn xuống theo chiều dài của cánh tay mình đang giơ lên. Nó chỉ thẳng lên cái trục chiều dài của ngôi mộ. Safia hạ cánh tay xuống rồi nhìn chăm chú vào quả tim bằng sắt.

Liệu có phải sự tình cờ kỳ quặc nào đó mà quả tim đã trở về đúng vị trí chính xác này? Nàng nhớ lại cách thức quả tim co bóp và tiếng đập cuối cùng của nó.

Giống như chiếc la bàn.

Nàng nhìn xuống chiều dài của ngôi mộ, giơ tay lên để nhìn theo nó. Cặp mắt của nàng dõi theo bức tường, ra ngoài thị trấn và xa hơn nữa. Đi qua cả bờ biển. Xa tới tận dãy núi màu xanh phía xa.

Giờ thì nàng đã biết.

Nàng cảm thấy cần phải chắc chắn.

- Tôi cần có một tấm bản đồ.

- Sao vậy? - Cassandra hỏi.

- Bởi vì tôi biết chúng ta sẽ đi tiếp nơi nào.

 


(1) Cầu chúc cho sự bình yên.

(1) Hãy bình an.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86761


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận