Lối Vào Địa Ngục Năm 1923


Năm 1923
Nửa đêm Đảo Sumatra Đông Nam Á

 

Cuối cùng thì những tiếng kêu la cũng chấm dứt.

Mười hai phát pháo sáng tỏa ra ánh sáng chói lòa bên phía cảng vào lúc nửa đêm.

Il dio, li perdona... nghe tiếng cha mình thì thào bên tai nhưng Marco biết Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho tội lỗi này.

Một tốp người đang ngồi chờ bên cạnh hai con thuyền dài, những người duy nhất chứng kiến cảnh giàn thiêu xác trên vùng nước biển đen ngòm. Khi mặt trăng nhô lên, cả mười hai chiến thuyền, tất cả đều bằng gỗ bị châm lửa thiêu rụi cùng với những ai còn lại trên khoang, kể cả các xác chết,  những kẻ vẫn đang lảm nhảm chửi bới và vài người còn sống. Những chiếc cột buồm từ các chiến thuyền đang bốc cháy nhô cao như những ngón tay giận dữ vươn ra tố cáo với trời xanh. Tàn lửa cháy rụi, bị gió cuốn rơi  xuống như mưa trên bãi biển và số ít ỏi trở thành nhân chứng. Màn đêm sặc sụa mùi thịt cháy khét lẹt.

"Mười hai chiến thuyền", ông bác Masseo lẩm bẩm, bàn tay vẫn cầm chặt cây thánh giá." Giống như con số các vị thánh tông đồ của Đức Chúa"

Cuối cùng thì tiếng la hét của những kẻ khốn khổ cũng chấm dứt. Chỉ còn lại tiếng lép bép từ đám lửa cháy leo lét trên bờ cát. Marco toan quay đi không muốn nhìn tiếp thảm cảnh này nữa. Những kẻ khác, tâm trí cũng chẳng mạnh mẽ gì hơn, tất cả đều quỳ xuống trên cát, lưng quay về phía biển; khuôn mặt họ xanh xao trông như những mẩu xương.

Tất cả đều bị lột trần. Ai nấy đều cố tìm kiếm xem người bên cạnh mình có chút dấu vết gì không. Ngay cả nàng công chúa Đại Hãn, đang đứng sau cột buồm, cũng chỉ đội trên đầu mỗi một chiếc vòng có điểm nữ trang. Marco để ý thân hình mảnh mai của nàng qua tấm vải, được ánh lửa phía sau hắt vào, chói sáng. Những người hầu của nàng, tất cả đều trần như nhộng, đang nhớn nhác tìm kiếm công chúa của họ. Tên nàng là Kokejin, Công chúa màu xanh, một cô gái ở độ tuổi mười bảy, cũng trạc tuổi Marco khi ông bắt đầu chuyến thám hiểm từ Venice tới. Gia đình Polo đã được Đại Hãn giao nhiệm vụ hộ tống công chúa đến với vị hôn thê của nàng là nhà vua Ba Tư, cháu nội người anh của Đại Hãn Kublai.

Đó lại là một cuộc sống khác hẳn.

Liệu có phải chỉ chưa đầy bốn tháng từ khi những người đầu tiên trong số các thuyền viên ngã bệnh, đã để lộ ra các vết bầm ở bụng và cùi tay? Căn bệnh quái ác này  lan nhanh như dầu đang cháy, cướp đi hết những người đàn ông khỏe mạnh trên boong rồi dồn họ đến hòn đảo của những kẻ ăn thịt người và những con vật lạ hoắc.

Ngay cả vào lúc này, vẫn nghe thấy những tiếng trống trong rừng đêm. Nhưng những kẻ man rợ biết rằng tốt nhất chưa nên lao vào nơi họ cắm trại, giống như loài sói tránh xa những con cừu bị bệnh, bốc lên toàn mùi hôi thối bệnh tật. Vài dấu hiệu duy nhất cho thấy họ đang giáp gần đến những  cái đầu lâu, được treo lủng lẳng qua hố mắt ở cành cây trên những cây củi khô, làm cho họ không dám lần mò đi sâu vào rừng tìm kiếm thức ăn.

Bệnh tật đã làm cho ngay cả lũ người man rợ cũng phải lánh xa.

Nhưng không còn lâu nữa.

 

Với ngọn lửa tàn ác, cuối cùng thì bệnh tật cũng bị dập tắt, để lại một nhóm nhỏ sống sót.

Họ là những người không mang những dấu bầm màu đỏ.

Vào một đêm cách đây bảy hôm, những người bị bệnh còn lại đã bị xích vào những chiếc thuyền thả neo cùng với một ít  nước và thực phẩm. Còn những người khác vẫn tiếp tục ở trên bờ, rất lo lắng không biết liệu ai trong số họ lại tiếp tục mắc bệnh không. Trong khi đó, những kẻ xấu số bị vứt trên thuyền gào thét vang cả một góc biển, khóc lóc, thỉnh cầu, chửi bới và la hét. Nhưng điều tệ hại nhất lại là những tiếng cười man dại, điên loạn.

Có lẽ thà cắt cổ họ bằng một lưỡi dao, chóng vánh và nhân từ còn hơn. Nhưng tất cả đều sợ chạm vào máu của những kẻ bị bệnh. Vì vậy những kẻ xấu số kia đã bị tống lên thuyền rồi nhốt cùng với những xác chết ở đó.

Đêm ấy, khi mặt trời lặn, một cái bóng kỳ lạ xuất hiện trên mặt nước biển, ghép mũi của hai chiếc thuyền lại rồi lan tỏa đi như một dòng sữa tuôn tràn xuống mặt nước đen ngòm. Trước đấy họ đã nhìn thấy cũng chính bóng ma đó ở các vũng nước và kênh đào nằm dưới tháp đá cổ trong cái thành phố bị nguyền rủa mà họ đã bỏ trốn.

Bệnh dịch tìm cách trốn thoát khỏi cái nhà ngục bằng gỗ.

Điều này làm cho họ không còn sự lựa chọn nào khác.

Những con thuyền, tất cả đều là chiến thuyền, trừ cái dành cho cuộc rút chạy của họ, còn đều bị châm lửa.

Ông bác Masseo của Marco đi đi lại lại trong số những người sống sót. Ông vẫy họ kiếm cái gì để che lên thân thể trần trụi của họ, nhưng một mảnh vải đơn giản hay tấm len dệt cũng không che giấu được sự xấu hổ từ trong con


người họ.

"Những điều chúng ta đã làm..." Marco nói.

"Chúng ta không nên nói đến chuyện đó nữa." Bố anh nói rồi chìa  một cái áo choàng đưa cho Marco." Con mà hé một tiếng nào về bệnh dịch hạch thì tất cả các vùng đất đều sẽ tẩy chay chúng ta. Không một cảng nào sẽ cho phép chúng ta cập bờ. Giờ đây, chúng ta đã thiêu trụi những bệnh nhân cuối cùng với ngọn lửa làm sạch hết thảy mọi thứ từ đội thuyền của chúng ta đến nước biển. Chúng ta chỉ còn cách là phải trở về nhà."

Trong khi Marco chụp chiếc áo choàng qua đầu mặc vào người, bố anh đã kịp để ý đến con trai mình dùng cây gậy vẽ lên cát hình vẽ gì đó. Mím môi thật chặt, người bố nhanh chóng lấy gót chân xóa sạch mọi thứ rồi nhìn cậu con trai. "Đừng bao giờ, Marco... đừng bao giờ".

Nhưng trí nhớ đâu có thể nhanh chóng bị xóa nhòa đi như vậy. Cậu đã từng phục vụ cho Đại Hãn như một học giả, đặc sứ, thậm chí người vẽ bản đồ  để vẽ nên những vương quốc bị chinh phục.

Bố cậu lại nói tiếp." Không một ai được biết đến những gì chúng ta tìm thấy... đấy là điều cấm kỵ."

Marco gật đầu và không muốn bình luận về những gì cậu đã vẽ. Cậu chỉ thầm thì:

Khuôn mặt của bố cậu, vốn đã xanh nhợt, giờ lại tái đi. Nhưng Marco biết  không phải là bệnh dịch làm bố cậu hoảng sợ.

"Hãy thề với bố đi, Marco." Người bố vẫn kiên trì.

Marco ngước lên nhìn khuôn mặt đầy những vết nhăn của bố. Ông đã già đi rất nhiều trong bốn tháng qua bằng cả thời gian ông phục vụ cho Đại Hãn ở Shangdu.

"Con phải thề trước vong linh của mẹ con rằng con sẽ không bao giờ nói lại những gì chúng ta tìm thấy, và những gì chúng ta đã làm".

Marco lưỡng lự.

Một bàn tay túm lấy vai cậu, bóp thật chặt đến xương. "Con trai, hãy thề với ta. Vì lợi ích của chính con."

Cậu nhận ra vẻ hoảng sợ hiện rõ trong đôi mắt rực cháy của bố...và cả lời cầu xin. Marco không thể từ chối.

 

"Con sẽ im lặng." Cuối cùng cậu hứa. "Con xin thề sẽ giữ im lặng cho đến khi chết...".

Ông bác của Marco cuối cùng cũng bước tới chỗ cháu khi nghe lỏm được lời thề của cậu. "Lẽ ra chúng ta không bao giờ nên ghé vào đây, Niccolo". Ông trách người em trai, nhưng những lời trách cứ thực ra là dành cho Marco.

Im lặng bao trùm lên cả ba người, thật nặng nề với những bí mật đã được chia sẻ.

Bác của cậu đã nói đúng.

Marco hình dung lại vùng đồng bằng nơi con sông chảy qua từ bốn tháng trở về trước. Con suối đen đổ vào biển, hai bên bờ là những bụi cây rậm rạp và cây dại. Họ chỉ tìm cách lấy thêm ít nước ngọt dự trữ trong khi chờ sửa chữa hai con thuyền. Lẽ ra họ không nên mạo hiểm đi xa hơn nhưng Marco đã nghe được những câu chuyện về một thành phố vĩ đại nằm ở phía bên kia của dãy núi thấp. Và trong mười ngày dự kiến dành cho việc sửa chữa, cậu đã cùng với một nhóm lính của Đại Hãn trèo qua dãy núi thấp để nhìn xuống những gì nằm ở phía dưới. Từ trên một đỉnh đèo, Marco phát hiện ra một cái tháp bằng đá nằm sâu trong rừng, nhô lên cao, lấp lánh dưới ánh  rạng đông. Nó thu hút cậu giống như một ngọn hải đăng làm cho cậu thấy tò mò hơn.

Rồi, sự tĩnh lặng khi họ băng qua cánh rừng để tới cái tháp như một lời cảnh báo với cậu. Không có một tiếng trống, giống như lúc này. Không có tiếng chim hay tiếng
kêu của loài khỉ. Đơn giản là một thành phố chết  đang chờ đón họ.

Thật là một lỗi lầm khủng khiếp khi tiến vào.

Nó đã làm cho họ phải trả giá không chỉ bằng máu.

Cả ba người nhìn chăm chú những chiến thuyền đã bị cháy rụi đang chìm dần xuống biển. Hai thập kỷ trước đây, cha, con và ông bác đã rời mảnh đất Italy dưới con dấu của Đức Giáo hoàng Gregory X, đi thám hiểm những vùng đất thuộc Mông Cổ. Trên những con đường đi đến các lâu đài và vườn thượng uyển của Đại Hãn ở Shangdu, họ đã bị giữ lại quá lâu, giống như những con chim bị nhốt trong lồng. Như những kẻ được sủng ái của vương triều, ba người thuộc gia đình Polo thấy mình bị giữ lại không phải bằng xiềng xích mà bằng tình bạn vĩ đại và bền bỉ của Đại Hãn, họ không thể rời đi đâu nếu không hỏi ý kiến người đỡ đầu của họ. Rồi cuối cùng thì họ cũng thấy được sự may mắn trở về nhà tại Venice, khi được giao nhiệm vụ tháp tùng công nương Kokejin đến với vị hôn phu của mình ở Ba Tư.

Giá như cái hạm thuyền đó không bao giờ rời Shangdu.

"Mặt trời sẽ lên cao bây giờ đấy." Bố cậu nói." Chúng ta phải đi thôi. Đã đến lúc trở về nhà." 

"Vậy lúc cập bến, chúng ta sẽ nói gì với Teobaldo?" Masseo hỏi, nhắc đến cái tên húy của người đàn ông, một thời đã là bạn và người tiến cử của gia đình Polo, đang được gán danh Giáo hoàng Gregory X.

"Không biết liệu ông ta còn sống không?" Bố cậu trả lời. "Chúng ta đã đi quá lâu rồi."

"Nhưng nếu như ông ta còn sống thì sao, Niccolo?" Người bác vẫn nài nỉ.

"Chúng ta sẽ nói với ông ta tất cả những gì mình biết về những người Mongol; phong tục cũng như sức mạnh của họ. Do chúng ta đã được chỉ dẫn bằng mệnh lệnh của ông ta quá lâu rồi. Còn đối với bệnh dịch ở đó... chẳng có gì để nói cả. Đã kết thúc. "

Masseo thở dài, nhưng xem ra ông cũng chưa hẳn yên tâm lắm. Marco đọc được câu nói của ông sau cái vẻ không vui.

Bệnh dịch đã không cướp đi tất cả những người bị mất.

Bố cậu nhắc lại một cách dứt khoát hơn rồi, như thể khẳng định "Điều đó đã kết thúc."

Marco ngước nhìn hai người đàn ông đứng tuổi, một là bố cậu, còn người kia là bác cậu, đứng trên nền đám khói bụi bốc lên cao bầu trời đêm. Điều này sẽ không bao giờ mất đi được, chừng nào họ còn nhớ.

 

Marco nhìn xuống những ngón chân mình. Mặc dù dấu vết đã bị xóa đi trên cát nhưng nó vẫn cháy bỏng trong đôi mắt của cậu. Cậu đã lấy được một cái bản đồ vẽ lên trên một mảnh vỏ thân cây. Vẽ bằng máu. Những ngôi đền và miếu mạo trải ra trong rừng.

Tất cả đều trống rỗng.

Trừ những người đã chết.

Mặt đất đầy xác những chú chim, ngổn ngang khắp quảng trường đá, như thể chúng bị đập từ trên trời xuống. Không có gì còn sót lại. Đàn ông, đàn bà và trẻ em. Những con bò và gia súc. Ngay cả những con rắn khổng lồ treo lủng lẳng trên cành cây, thịt phồng lên dưới lớp da.

Sinh vật sống sót duy nhất là loài kiến.

Đủ các loại và màu sắc.

Kéo từng bầy qua các tảng đá và xác chết, chậm chạp gậm nhấm xác chết.

Nhưng cậu đã nhầm... điều gì đó vẫn còn chờ cho đến khi mặt trời rơi xuống.

Marco cố quên đi những ấn tượng này.

Sau khi phát hiện tấm bản đồ Marco đã lấy trộm từ một ngôi chùa, bố cậu đã đốt nó đi rồi vứt tro xuống biển. Ông làm việc ấy ngay khi người đàn ông đầu tiên trên thuyền của họ bị ốm.

"Chúng ta phải quên điều đó đi." Bố cậu đã cảnh báo. "Chẳng liên quan gì đến chúng ta cả. Hãy để cho lịch sử cuốn đi."

Marco vẫn tôn trọng lời thề của mình. Đây là câu chuyện cậu không bao giờ kể. Tuy nhiên, cậu vẫn thấy xúc động bởi một trong những dấu vết trên cát. Cậu chính là người đã thu thập được rất nhiều... liệu hủy hoại một kiến thức như vậy có đúng không?

Nếu có cách nào đấy để giữ gìn nó...

 

Như thể đọc được suy nghĩ của Marco, bác Masseo đã nói toẹt ra  những lo lắng của họ." Và nếu như nỗi hãi hùng đó lại xuất hiện nữa, Niccolo, liệu một ngày nào đấy chúng ta có trở về được bờ biển của chúng ta không?"

"Thế thì điều ấy có nghĩa là chấm dứt sự thống trị của con người đối với trái đất này." Bố cậu cay đắng trả lời. Ông đập mạnh cây thánh giá vào bộ ngực trần của Masseo. "Thầy tu biết hơn cả chúng ta. Sự hy sinh của ngài..."

Cây thánh giá trước đây là của thầy tu Agreer. Quay trở lại thành phố chết, thầy đã hiến dâng cuộc sống của mình để cứu họ sống sót. Một sự thỏa thuận đen tối đã được tiến hành. Họ để ông ta lại đó, bỏ mặc ông theo chính lời thỉnh cầu của ông.

Người cháu của Giáo hoàng Gregory X.

Marco thì thào khi ngọn lửa cuối cùng tắt hẳn trong làn nước đen sẫm. "Liệu lần sau Chúa có cứu chúng ta nữa không?"

 

*

*   *

 

Ngày 22 tháng 5, 6 giờ 32 phút chiều

Đại Tây Dương

Vĩ độ 44’07.87 kinh độ 1050 11’56.52 Tây

"Có ai muốn một chai bia Foster nữa khi tôi đang ở dưới này không?" Gregg Tunis gọi từ dưới khoang tàu.

Tiến sĩ Susan Tunis cười khi nghe giọng chồng mình trong lúc cô bật nút thang dẫn lên boong. Cô cởi bỏ quần áo lặn rồi nhét bộ đồ lặn vào chỗ đựng ở khoang sau. Tiếng bình ga kêu leng keng khi được xếp cùng với những
thứ khác.

Thoát khỏi mấy thứ lỉnh kỉnh đó, cô lấy chiếc khăn tắm khoác lên vai lau khô mái tóc vàng hầu như trắng vì ánh sáng mặt trời và muối biển. Xong xuôi, cô kéo soạt chiếc khóa bộ quần áo ướt của mình ra bằng một động tác nhanh nhẹn.

Có tiếng động từ hàng ghế phía sau nhưng Susan cũng chẳng buồn quay lại. Rõ ràng là có ai đó đã dành quá nhiều thời gian ở các câu lạc bộ khỏa thân ở Sydney. "Giáo sư Applegate, liệu ngài có cần luôn phải làm vậy khi tôi thay quần áo không?"

Nhà địa chất học có mái tóc muối tiêu chỉnh lại cặp kính đọc sách trễ xuống sống mũi, cuốn sách về lịch sử hàng hải vẫn đang mở trên đùi.

"Thật chả ra dáng đàn ông chút nào khi cố tìm cách nhìn bằng được  một người phụ nữ trẻ đang trút bỏ xiêm áo".

Susan kéo tụt chiếc áo lặn ướt sũng đến tận hông. Cô chỉ mặc mỗi một mảnh áo bơi bên trong quần áo lặn. Rồi chẳng buồn để ý đến vị giáo sư đã nghỉ hưu, hơn cô ba mươi tuổi đang nhìn như nuốt chửng thân thể cô. Cô không muốn cho ông ta cơ hội tự do chiêm ngưỡng cảnh này.

Chồng cô trèo lên với ba chai bia lạnh ngắt, mỗi ngón tay kẹp một chai. Anh toét miệng cười khi nhìn thấy vợ. "Anh nghe thấy em đang ca cẩm điều gì đó thì phải."

Gregg đã trèo lên bậc thang cuối cùng, vươn thẳng thân hình cao lớn của mình. Anh mặc mỗi chiếc quần soóc lửng, sơ mi rộng thùng thình mở toang không cài khuy. Chỉ mới ba ngày trước đây thôi, họ đã tổ chức kỷ niệm năm năm ngày cưới trên chiếc du thuyền, đậu cách Kiritimati Atoll chừng một trăm hải lý, được biết đến như đảo Giáng sinh.

Anh đưa cho cô một chai bia. "Thế có gặp điều gì may mắn ở xung quanh không?"

Cô tợp một ngụm dài, tận hưởng độ mát lạnh của bia. Ngụp lặn trong  nước biển mặn suốt cả buổi chiều làm mồm cô khô khốc."Không có gì đặc biệt. Vẫn không tìm ra nguyên nhân của vụ đổ bộ lên cạn."

 

Cách đây mười hôm, tám mươi con cá heo thuộc chủng Tursiops aduncus, một loại cá heo vùng Ấn Độ Dương, đã bơi ngược lên cạn dọc theo bờ biển Java. Nghiên cứu của cô tập trung vào hậu quả lâu dài sự can thiệp của ánh sáng mặt trời vào các chủng loại động vật biển có vú, nguồn gốc của những trận đổ bộ tự sát trong quá khứ. Thông thường, cô dẫn theo một tốp trợ lý đi cùng, bao gồm cả những người vừa tốt nghiệp và chưa tốt nghiệp, nhưng chuyến đi này lại là một kỳ đi nghỉ cùng với người bảo trợ cũ của mình. Cũng là một cơ may khi xảy ra vụ lội cạn hàng loạt ở vùng này, vì vậy đã kéo dài thời gian họ lưu lại đây.

"Liệu có phải do một điều gì đó khác hơn là ánh sáng, do con người tạo ra không?" Applegate suy nghĩ, lấy ngón tay khoanh lại thành những vòng tròn trên chai bia đông lạnh của mình." Những cơn địa chấn nhỏ thường xuyên cày xới khu vực này. Có thể một vụ động đất ngầm dưới biển tình cờ nào đấy đã tạo ra một loại âm thanh làm chúng sợ cuống cuồng lao lên bờ tự sát chăng."

"Cách đây mấy tháng cũng có một vụ động đất tình cờ." Chồng cô nói. Anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh vị giáo sư rồi kéo ghế để cô ngồi cạnh anh." Hay cũng có thể do một cơn địa chấn tiếp theo?"

Susan không thể tranh luận với những giả thiết của họ. Giữa một loạt những vụ động đất chết người hai năm qua và một cơn động đất lớn ở khu vực, đáy biển đã bị xáo trộn ghê gớm. Nó đủ nhọn sắc để chọc thủng bất kỳ ai. Nhưng cô cũng không tin lắm. Có cái gì đó khác đang diễn ra. Những tảng đá ngầm phía dưới trống trải một cách kỳ quặc. Cuộc sống nhỏ nhoi ở dưới đáy biển hình như co cụm lại ở các tảng đá mấp mô, hố cát và vỏ sò. Hầu như cuộc sống dưới biển cả đang ngừng thở.

Có thể những sinh vật nhạy cảm đang thích ứng với những cơn dư chấn nhỏ.

 

Cô nhíu mày rồi ngồi xuống cạnh chồng. Cô sẽ điện về đảo Giáng sinh để xem họ có nhận được hoạt động địa chấn khác thường gì không. Chỉ đến lúc khi cô có tin tức thì mới có thể buộc chồng cô phải xuống nước vào buổi sáng.

"Em đã tìm thấy một cái gì đấy giống như xác của một con tàu cũ"

"Làm gì có". Chồng cô ngồi bật dậy. Trở lại cảng Darwin, Gregg đã gợi ý các  tua đi thăm những tàu chiến bị đắm từ Thế chiến Thứ Hai nằm rải rác ở các vùng biển phía bắc của Australia. Anh rất thích thú với những phát kiến như thế. "Ở đâu vậy?"

Cô lơ đãng chỉ tay về phía sau mình, qua phía bên kia du thuyền. "Cách thuyền chúng ta khoảng một trăm mét. Một vài cây cột đen sì thò ra ngoài cát. Có thể bị tác động của đợt động đất lớn vừa qua hoặc thậm chí lộ ra khi bùn đất bị đánh tan ra sau khi cơn dư chấn đi qua. Em không có thời gian thăm dò. Vì vậy em phải dành lại cho một chuyên gia thôi." Cô bấm mạnh vào sườn chồng và tựa lưng vào ngực anh.

Rồi cả ba người ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn xuống mặt biển. Đó là thông lệ của họ. Trừ những ngày dông bão, họ chưa bao giờ bỏ lỡ một buổi hoàng hôn trên biển. Con thuyền lắc nhè nhẹ. Từ phía xa, một chiếc  tàu chở dầu chạy ngang qua, phát lên vài tín hiệu. Còn lại họ hoàn toàn cô độc.

Một tiếng chó sủa khiến Susan giật mình, làm cô nhảy dựng lên. Cô không biết rằng mình cũng hơi chút căng thẳng. Rõ ràng biểu hiện lạ lùng của cuộc sống dưới đáy biển ở đây đã ảnh hưởng đến cô.

"Ồ, Oscar!" Vị giáo sư gọi.

Đến lúc này Susan mới để ý sự vắng mặt của nhân vật thứ tư trên chiếc du thuyền. Con chó lại sủa tiếp. Con chó thuộc giống Queensland là của giáo sư. Già rồi và bị thấp khớp, con Oscar thường nằm dài sưởi nắng bất cứ lúc nào nó thấy nắng.

 

"Tôi phải ra xem nó ra sao." Vị giáo sư nói. " Tôi để cho hai người ở lại âu yếm nhau. Hơn nữa, tôi còn muốn đi lên mũi tàu. Dành chỗ để làm thêm một chai Foster nữa trước khi đi ngủ."

Vị giáo sư uể oải đứng dậy rồi đi về phía mạn tàu, định vòng ra phía xa, nhưng ông dừng lại, nhìn về phía tây, đến khu vực bầu trời tối xẩm.

Con Oscar lại sủa nữa.

Lần này giáo sư không mắng nó nữa. Thay vì đó, ông quay về chỗ Susan và Gregg. Giọng của ông trầm xuống vẻ nghiêm trọng. "Các cậu phải đến xem cái này".

Susan đứng dậy rồi Gregg bước theo. Họ đến chỗ giáo sư.

"Quái quỷ gì..." chồng cô lầu bầu.

"Tôi nghĩ các bạn có thể tìm xem điều gì xô đẩy lũ cá heo rời khỏi biển cả." Giáo sư nói.

Về phía tây, một khu vực rộng lớn của biển cả ánh lên với thứ ánh sáng ma quái, nhô lên rồi hạ xuống cùng với những đợt sóng. Cái thứ ánh sáng màu bạc đó cuộn đi rồi lại trải ra. Con chó già đứng trên boong sủa rồi hướng về phía làn ánh sáng.

"Cái quái quỷ gì vậy?" Gregg hỏi.

Susan trả lời khi khi bước tới gần hơn. "Em đã nghe về những hiện tượng này rồi. Chúng được gọi là biển sữa. Những con tàu đã báo về thứ ánh sáng như vậy ở vùng Ấn Độ Dương, trở về thời của Jules Verne. Vào năm 1995, một vệ tinh còn nhận biết được một trong những hiện tượng này, trải dài hàng trăm dặm vuông. Đây là loại nhỏ."

"Nhỏ cái con khỉ." Chồng cô vặc lại." Nhưng chính xác là cái gì? Một loại thủy triều đỏ chăng?"

Cô lắc đầu. "Không chính xác là vậy. Thủy triều đỏ là những loài tảo. Những ánh sáng này do một loại vi khuẩn ánh sáng gây ra, có thể do chúng ăn tảo hoặc các thứ dưới đáy biển. Không có gì nguy hiểm cả. Nhưng em muốn..."

 

Có tiếng đập mạnh vào mạn tàu như thể có một vật gì lớn đập vào phía dưới. Tiếng sủa của con Oscar thấy dồn dập hơn. Con chó lởn vởn quanh hàng lan can trên boong, cố thò mõm ra ngoài.

Cả ba người đến chỗ con chó rồi nhìn xuống phía dưới.

Một đợt sóng từ biển sữa đập mạnh vào thành tàu. Từ tận sâu dưới biển, một vật gì đó rất lớn hiện ra, bụng ngửa lên trên, vẫn giãy giụa, răng nhe ra. Đó là một con cá mập hổ dài tới sáu mét. Nước biển trào lên thân hình nó, sủi bọt, biến thứ nước sữa thành màu vang đỏ.

Susan nhận ra không phải nước đang sủi trên bụng con cá mập, mà đó chính là thịt của nó, sủi bọt từ những vệt hở toang hoác. Cảnh tượng hãi hùng đó dần chìm nghỉm. Nhưng từ phía biển sữa những hình thù khác lại nổi lên trên mặt biển, vật vã hoặc rõ ràng đã chết, từ những loài động vật có vú như cá heo, rùa biển, còn cá thì không biết bao
nhiêu nữa.

Giáo sư lui lại một bước từ hàng lan can trên boong. "Hình như những vi khuẩn đó tìm thấy nhiều hơn là loại tảo để ăn thì phải".

Gregg quay lại nhìn chằm chằm vào vợ. "Susan..."

Cô vẫn đang nhìn không dứt ra khỏi cảnh tượng chết người trước mắt. Mặc dù lo sợ nhưng cô vẫn không thoát khỏi sự tò mò của một nhà khoa học.

"Susan..."

Cuối cùng cô cũng quay về phía anh, hơi bực bội.

"Em đã lặn ngụp ở khu vực này suốt cả ngày." Anh giải thích, chỉ về phía biển.

"Thế thì sao? Tất cả chúng ta đều cũng thỉnh thoảng ở dưới biển. Ngay cả con Oscar cũng lao xuống mà".

Chồng cô không đáp lại cái nhìn của cô. Anh vẫn chăm chú nhìn vào chỗ cô đang gãi ở cánh tay. Cái áo ngoài ướt át thỉnh thoảng làm cô ngứa ngáy. Nhưng vẻ lo lắng hiện rõ trên nét mặt chồng làm cô chú ý nhìn xuống cánh tay mình. Da của cô lốm đốm những vệt rãnh, bị hằn sâu thêm lúc
cô gãi.

Khi cô nhìn vào những vệt hằn đỏ hiện lên lớn dần
trên da.

"Susan..."

Cô hét lên không tin được. "Lạy chúa..."

Nhưng cô cũng nhận ra một sự thật khủng khiếp.

"Cái đó... cái đó ở trong em."

 

 

 

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86456


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận