Blaze Chương 9

Chương 9

Khi Clayton Blaisdell, Jr tới Trại Helton, đã có một bà Hiệu trưởng. Cậu không nhớ tên bà ấy, chỉ nhớ mái tóc màu xám của bà, và đôi mắt to màu xám phía sau cặp kính của bà, và những điều bà đọc cho nghe về nhà Bible, rồi lời bà nói khi kết thúc mỗi buổi tập trung buổi sáng: Hãy là đứa trẻ ngoan, và con sẽ thành đạt. Rồi một hôm bà không còn ở trong văn phòng nữa, bởi vì bà đã bị đột quỵ. Đầu tiên Blaze nghe mọi người nói Blaze tưởng bà đã có một con cò nhưng rồi cuối cùng nó cũng hiểu ra: đột quỵ. Đó là trận đau đầu mà không thể hết được. Người thay thế bà là Martin Coslaw. Blaze chưa bao giờ quên tên ông ta vì lũ trẻ gọi ông là Thẩm Phán. Blaze không bao giờ quên ông Thẩm Phán vì ông ấy dạy môn Số học.

Môn Số học được dạy ở phòng 7 trên tầng ba, trên đó mùa đông lạnh cóng. Trên tường treo những bức tranh của George Washington, Abraham Lincoln, và Marry Hetton. Làn da Hetton nhợt nhạt và mái tóc đen phủ từ khuôn mặt ra phía sau. Đôi mắt bà sẫm màu đôi lúc nhìn về phía Blaze để buộc tội mọi điều sau khi đèn tắt. Hầu hết là phải câm lặng. Có thể câm lặng suốt cả thời trung học, như ông Thẩm phán đã nói.

Sàn phòng 7 màu vàng, đã cũ và luôn có mùi của nước đánh bóng sàn, mùi khiến Blaze cảm thấy buồn ngủ ngay cả khi hắn hoàn toàn tỉnh táo bước vào. Ở đó có chín chiếc chao đèn sáng lốm đốm tỏa ra ánh sáng yếu ớt, buồn bã trong những ngày mưa. Ở phía trước căn phòng có một chiếc bảng đen cũ dán những áp phích màu xanh với bảng chữ cái viết theo kiểu chữ Palmer - cả chữ in hoa và chữ cái thường. Sau bảng chữ cái là các số đếm từ 0 đến 9, quá đẹp và chúng khiến ta cảm thấy mình thật ngốc nghếch và vụng về. Các bàn học đều bị khắc chồng chéo những biểu ngữ và tên họ, hầu hết đã cũ rích do được phủ cát và đánh bóng bao nhiêu lần nhưng chẳng bao giờ xóa sạch được. Chúng đều được chốt chặt vào sàn nhà trên những chiếc đĩa bằng sắt. Mỗi bàn có một lọ mực. Lọ nào cũng đầy mực Carter. Làm đổ mực bạn sẽ bị phạt, đứng trong phòng vệ sinh. Để dây vết gót giày đen lên sàn màu vàng phòng học, bạn cũng được nhận một roi da. Gian dối trong lớp bạn được nhận một roi da, chỉ có gian dối trong lớp bị gọi là Học trò cá biệt. Roi da còn được áp dụng cho nhiều thứ vi phạm nữa. Martin Coslaw rất tin vào roi da và cái Mái chèo. Cái Mái chèo của Thẩm Phán đáng sợ hơn tất cả mọi thứ trong Trại Helton, thậm chí hơn cả ông Ba bị trốn dưới giường của lũ trẻ nhỏ. Cái Mái chèo thực ra là một cái bàn xẻng khá mỏng. Thẩm Phán đã khoan vào nó bốn cái lỗ để giảm sức cản của không khí.

Ông đã từng là một tay chơi bowling trong đội The Falmouth Rocker, và thỉnh thoảng vào thứ sáu ông ta lại mặc chiếc áo chơi bowling tới trường. Chiếc áo màu xanh thẫm và có in tên ông - Martin - bằng những chữ viết màu vàng phía trên túi ngực. Blaze thấy những chữ cái đó hầu như (nhưng không hoàn toàn) giống chữ viết kiểu Palmer. Thẩm Phán bảo rằng trong bowling cũng như trong cuộc sống, cứ chần chừ giữ bóng thì nó sẽ bật lại. Cánh tay phải ông rất dẻo dai nhờ giữ bóng và ném bóng, và khi ông giơ ra cho ai đó chiếc dây da với cái Mái chèo thì thật kinh khủng. Khi nào ông nghiến răng nghiến lợi thực thi hình phạt Mái chèo với cậu bé nào trót là học sinh cá biệt thì phải biết. Đôi khi ông nghiến răng nghiến lợi mạnh đến như muốn tứa máu, và có lúc một cậu bé ở Trại Helton đã gọi ông là Dracula[19] thay vì là Thẩm Phán, nhưng rồi sau đó bọn trẻ không thèm nhìn mặt nó nữa. Dù là đồng bọn, không đứa nào được đổi cái tên hay ho chúng đã đặt như vậy.

Martin Coslaw bị tất cả các cậu bé trong trại Helton ghét và sợ, nhưng không ai ghét và sợ ông ta hơn Blaze. Blaze rất kém môn Số học. Nó phải cố gắng lắm mới trả lời được câu hỏi hai quả táo cộng với ba quả táo bằng bao nhiêu, còn phép cộng một phần tư quả táo với một nửa quả táo thì quá xa vời đối với nó. Với nó, táo chỉ để ăn mà thôi.

Chính thời gian học Số học cơ bản đã kéo Blaze vào trò lừa gạt đầu tiên, dưới sự giúp đỡ của thằng bạn John Cheltzman. John gầy gò, xấu xí, lóng ngóng và trông rất đáng ghét. Cái vẻ đáng ghét cũng không mấy khi hiện ra, nó được giấu sau cặp kính dày dán chặt vào mắt, vẻ đần độn và tiếng cười khằng khặc quê mùa của nó. Nó là mục tiêu tự nhiên của những tên lớn hơn, khỏe hơn. Chúng đánh nó suốt. Mặt nó mùa xuân và mùa thu thì chúng bôi nhọ, mùa đông thì chúng lấy tuyết xoa vào. Áo nó thì chúng xé toạt hết ra. Chắng mấy khi nó thoát ra khỏi những vụ như vậy mà không có vài cái khăn ướt. Nó lau vết nhọ hay tuyết đi, gấp cái vạt áo rách vào, hoặc vừa cười khằng khặc bỏ đi vừa chùi cái mặt lừa đang đỏ lựng lên, trông thật đáng ghét. Còn về trí óc. Nó là đứa giỏi của lớp - khá giỏi, nó chẳng làm thế nào khác được, chắng mấy khi nó không đạt điểm trên B. Và vì vậy mà không được ưa. Đối với bọn trẻ ở Helton, điểm A nghĩa là rất lố bịch. Nếu không nói là đáng bị ăn đòn.

Blaze đang dậy thì. Mười một, mười hai tuổi, nó chưa lớn hẳn, nhưng đang bắt đầu dậy thì. Nó đã to cao bằng mấy đứa lớn. Và nó không tham gia đánh nhau hay chơi trò ném khăn trên sân. Một hôm nó đang đứng cạnh hàng rào phía cuối sân chơi, chẳng làm gì mà là để xem những dây đèn nhấp nháy trên cây, thì John Cheltzman đi tới. Nó đưa ra cho Blaze một đề nghị.

"Kỳ này mày lại phải tái ngộ Thẩm Phán rồi", John nói, "Lại phân số nhé."

"Tao ghét phân số lắm", Blaze bảo.

"Tao sẽ làm bài tập về nhà hộ mày nếu mày đừng có cao giọng với tao nữa. Tao sẽ không làm bài tốt đến độ ông ấy có thể nghi ngờ và mày bị phát hiện, nhưng đủ để mày qua được. Mày sẽ không phải đứng phạt." Đứng phạt không đến nỗi như ăn roi da, nhưng cũng rất tệ. Phải đứng trong góc phòng 7, úp mặt vào tường. Không được nhìn đồng hồ.

Blaze ngẫm nghĩ về ý kiến của John Cheltzman, rồi lắc đầu. "Ông ta sẽ biết. Tao sẽ bị gọi lên để trả lời miệng. Và ông ta sẽ biết."

"Mày chỉ nhìn quanh phòng học như là mày đang nghĩ," John bảo. "Tao sẽ lo cho mày."

Và John đã làm thế. Nó viết đáp số bài tập ở nhà ra và Blaze chép chúng lên bảng, cố gắng cho những con số thật giống kiểu chữ Palmer. Có đôi lần Thẩm phán gọi nó lên, nó nhìn lơ đễnh quanh lớp, và Martin Coslaw thấy tất cả đều bình thường, đứa nào chả thế khi bị gọi lên. Trong lúc nhìn quanh, nó dừng mắt ở John Cheltzman đang ngồi sụp xuống và đặt tay lên ghế. Nó sẽ dùng ngón tay để ra hiệu con số đáp án. Nếu là phân số, John sẽ nắm tay lại. Rồi mở ra. Nó làm thế nhanh như chớp. Bàn tay trái sẽ chỉ tử số. Bàn tay phải là mẫu số. Nếu mẫu số lớn quá số 5, Johny lại nắm tay lần nữa rồi dùng cả hai bàn tay để ra hiệu. Blaze không gặp khó khăn gì với tất cả những tín hiệu đó - những thứ thực ra còn phức tạp hơn cái mà nó cần trả lời.

"Nào, Clayton?" Thẩm Phán lên tiếng. "Cả lớp đang đợi em đấy."

Và Blaze trả lời: "Một phần sáu ạ."

Không phải lúc nào nó cũng cần phải đúng. Khi Blaze kể chuyện này cho George, George gật gù: "Trò lừa đảo đó hay đấy! Thế khi nào thì nó mới chấm dứt?"

Trò đó chấm dứt ba tuần trước khi kết thúc học kỳ, và khi Blaze nghĩ ngợi về nó - nó đã nghĩ được rằng trò ấy chỉ tổ làm mất thời gian và đó là một việc khó - nó cho rằng Thẩm Phán chắc là phải nghi ngờ về sự tiến bộ đáng ngạc nhiên của Blaze. Nó không muốn như vậy nữa. Chẳng khác gì tự buộc dây thừng vào cổ mình.

Trong kỳ thi vấn đáp, bất ngờ Blaze trượt với điểm không tròn trĩnh. Toàn bộ các câu đố đều là về phân số. Thực ra các câu đố đều được đặt ra với mục đích và chỉ một mục đích mà thôi, đó là lật tẩy Clayton Blaisdell, Jr. Bên dưới điểm Không là một dòng ghi chú nguệch ngoạc bằng mực đỏ tươi. Blaze chẳng đọc được đành mang đến hỏi John.

John đọc dòng chữ. Lúc đầu nó không nói gì. Rồi sau đó nó bảo Blaze: "Dòng chữ này nói rằng 'John Cheltzman sắp giành lại được thế thắng'."

"Cái gì? Hở?"

"Nó viết rằng: Bốn giờ lên văn phòng gặp tôi để tường trình."

"Về cái gì?"

"Tại vì chúng mình đã quên béng mất các bài kiểm tra", John trả lời. Rồi nó bảo "Không, mày không quên. Là tao quên. Bởi vì tất cả những gì tao nghĩ được là làm thế nào để bọn Blutos lấy thịt đè người đừng đánh tao nữa. Bây giờ thì mày sẽ đánh tao, Thẩm Phán sẽ cạo lông tao và rồi lũ Blutos lại hạ tao tiếp. Chúa ơi, ước gì tao chết đi được." Rồi nó làm ra vẻ như nó đang chết đi.

"Tao sẽ không đánh mày."

"Không á?" John nhìn nó với ánh mắt không biết có nên tin hay không.

"Mày sẽ không làm bài kiểm tra cho tao, được không?"

Văn phòng của Martin Coslaw là một phòng khá rộng có gắn tấm biển HIỆU TRƯỞNG trên cửa ra vào. Trong phòng có một cái bảng đen nhỏ treo đối diện với cửa sổ. Cửa sổ nhìn ra sân trường Helton tồi tàn. Tấm bảng đen chi chít các vết phấn - Blaze nhìn thất vọng - và các phân số. Khi Blaze bước vào thì Coslaw đã ngồi sau bàn làm việc. Ông ta có vẻ đang cau có vô cớ. Và Blaze lại cho ông cái cớ để mà cau có. "Gõ cửa", ông ta nói.

"Gì ạ?"

"Quay lại và gõ cửa", Thẩm Phán nhắc lại.

"Ồ." Blaze quay ra, gõ cửa, và bước vào.

"Cám ơn."

"Dạ."

Coslaw nhìn Blaze một cách cau có. Ông lấy ra một cái bút chì và bắt đầu gõ nó lên bàn. Một cái bút chì màu đỏ nhạt. "Clayton Blaisdell, Jr.", ông nói, và ra chiều ngẫm nghĩ, "Tên thì dài mà óc thì ngắn."

"Các bạn gọi em là..."

"Ta không cần biết các bạn gọi cậu là gì, trẻ con chỉ là con dê non, chỉ toàn nói những thứ tiếng lóng ngốc nghếch, ta không quan tâm đến những lời đó và những ai sử dụng nó. Ta là thầy giáo dạy Số học, nhiệm vụ của ta là chuẩn bị cho những chàng trai trẻ như cậu bước vào trường trung học - nếu có thể chuẩn bị được - và dạy cho chúng phân biệt được đúng sai. Nếu trách nhiệm của ta chỉ dừng lại ở việc dạy Số học - mà thỉnh thoảng ta cũng mong thế, ta thường xuyên mong như thế - thì sẽ không có tình huống này, nhưng ta còn là Hiệu trưởng, vì thế còn phải dạy điều đúng điều sai, quod erat demonstrandum. Cậu có biết quod erat demonstrandum nghĩa là gì không, ngài Blaisdell?

"Không", Blaze trả lời. Tim nó như ngừng đập và nó cảm thấy nước đang trào lên trong mắt mình. Nó lớn hơn so với tuổi nhưng lúc này nó thấy mình quá bé. Bé và đang ngày càng bé dần đi.

"Không, và sẽ không bao giờ, bởi vì ngay cả nếu cậu có đang học năm thứ hai ở trường trung học - mà điều này thì ta không tin lắm - cậu cũng chẳng bao giờ tiếp cận được với môn Hình học thay vì ngồi uống nước ở cuối hội trường." Thẩm Phán đan chéo các ngón tay và đu đưa người trên ghế. Chiếc áo bowling treo trên tựa ghế cũng đu đưa theo người ông. "Nó có nghĩa là, điều đó đã được chứng minh, ngài Blaisdell ạ, và điều mà tôi đã chứng minh được qua kì thi vấn đáp vừa rồi là: cậu là một tên gian dối. Kẻ gian dối không phân biệt được đúng và sai. QED, quod erat demonstrandum. Và vì thế, xử phạt."

Blaze dán mắt xuống sàn. Nó nghe thấy tiếng mở ngăn kéo. Có cái gì đó được lấy ra rồi ngăn kéo trượt vào, đóng lại. Chẳng cần phải nhìn nó cũng biết cái mà Thẩm Phán đang cầm trên tay là cái gì.

"Ta ghét cay ghét đắng những tên gian dối", Coslaw nói, "nhưng ta hiểu những thiếu thốn về tinh thần của cậu, Blaisdell ạ, và ta còn hiểu rằng có một kẻ còn tồi tệ hơn cả cậu trong tình huống nhỏ này. Đó là kể đã nhồi nhét âm mưu đó vào cái đầu óc u tối đầy triển vọng của cậu rồi sau đó tiếp tay cho cậu. Cậu hiểu ý ta chứ?"

"Không", Blaze đáp.

Giọng Coslaw rít qua kẻ răng nghe sởn cả gai ốc. Ông ta nắm chặt cái Mái chèo một cách rất cương quyết.

"Ai đã làm bài tập cho cậu?"

Blaze không nói năng gì. Còn ba hoa được gì nữa. Tất cả các truyện tranh, chương trình ti vi và phim truyện đều chỉ nói một điều như nhau. Không được ba hoa. Đặc biệt về người bạn duy nhất của mình. Và có vài điều. Vài điều cần cố gắng để diễn đạt ra.

"Thầy không phải phạt em đâu ạ", cuối cùng nó nói.

"Ồ", Coslaw nhìn nó đầy vẻ ngạc nhiên. "Cậu vừa nói thế đấy à? Và tại sao lại thế, hả ngài Blaisdell? Giải thích đi nào, ta tò mò rồi đấy."

Blaze không hiểu những lời lẽ lớn lao ấy, nhưng nó hiểu cái nhìn đó. Suốt đời nó bị cái nhìn đó ám ảnh.

"Thầy chẳng quan tâm đến việc dạy em. Thầy chỉ muốn làm cho em cảm thấy bé nhỏ, và làm tổn thương ai cản trở thầy làm việc đó. Thầy sai rồi. Thầy không thể phạt em khi chính thầy mới là người sai."

Ánh mắt Thẩm Phán không còn ngạc nhiên nữa. Bây giờ nó chuyển sang giận dữ. Giận dữ đến nỗi nổi cả mạch máu lên trên trán. "Ai đã làm hộ bài tập cho cậu?"

Blaze lặng thinh.

"Trong lớp cậu đã làm thế nào để trả lời được câu hỏi? Chuyện đó là thế nào?"

Blaze vẫn lặng thinh.

"Có phải Cheltzman không? Ta tin chắc đó là Cheltzman."

Blaze không nói gì hết. Bàn tay nó siết chặt lại, run lên. Nước mắt nó trào ra, nhưng nó không nghĩ đó là những giọt nước mắt mặc cảm.

Coslaw cầm Mái chèo bằng một cánh tay phang vào Blaze. Nó kêu răng rắc như tiếng một khẩu súng nhỏ. Đây là lần đầu tiên Blaze bị thầy giáo đánh mà không phải do ngu dốt. Ngày bé thỉnh thoảng nó có bị véo tai và một hai lần bị búng mũi. "Trả lời ta đi, đồ con nai ngu độn!"

"Khốn kiếp!", Blaze bật khóc, những cảm xúc không thể tả nổi như muốn vỡ òa ra. "Khốn kiếp, khốn kiếp!"

"Đến đây", Thẩm Phán nói. Mắt ông trợn lên rất đáng sợ. Cánh tay cầm Mái chèo trở nên trắng nhợt ra. "Đến đây, đồ rác rưởi."

Rồi vì cơn thịnh nộ đang dâng lên và vì dẫu sao cũng chỉ là một đứa trẻ, Blaze bỏ đi.

Hai mươi phút sau, khi nó bước ra từ phòng Thẩm Phán, nó cảm thấy nghẹt thở và đổ cả máu cam, nhưng mắt vẫn ráo hoảnh và miệng mím chặt, nó đã trở thành một giai thoại của Trại Helton.

Nó đã hoàn thành môn Số học. Suốt tháng mười và gần hết tháng mười một, thay vì phòng 7, nó học ở phòng 19. Đối với Blaze thì điều này rất hay. Hai tuần trước đó nó được nghỉ ngơi thoải mái và điều đó thật tuyệt.

Một ngày cuối tháng mười một, nó lại được gọi lên văn phòng thầy Hiệu trưởng Coslaw một lần nữa. Một người đàn ông và một phụ nữ trung tuổi đang ngồi trước tấm bảng. Blaze thấy họ có vẻ khô khan. Trông như họ có thể bị thổi bay trong cơn gió cuối thu như những chiếc lá.

Thẩm Phán ngồi phía sau bàn làm việc. Không thấy chiếc áo bowling của ông đâu. Căn phòng hơi lạnh vì cửa sổ mở để đón ánh sáng từ những tia nắng tháng mười một yếu ớt. Ngoài việc say mê môn bowling, Thẩm Phán còn là một người bạn cởi mở. Người đàn ông khô khan bận một bộ com-lê màu xám, áo có độn vai và thắt cà vạt. Người phụ nữ khô khan thì mặc áo khoác len và áo cánh trắng bên trong. Tay cả hai người đều hằn những tĩnh mạch. Tay người đàn ông thì chai sạn, còn tay người phụ nữ thì nứt nẻ và đỏ ửng.

"Thưa ông bà Bowie, đây là cậu bé mà tôi đã nói. Bỏ mũ xuống, cậu Blaisdell."

Blaze bỏ chiếc mũ lưỡi trai Red Sox xuống.

Ông Bowie nhìn nó soi mói. "Cậu ta lớn đấy. Thầy bảo mới mười một tuổi thôi sao?"

"Tháng sau là mười hai tuổi rồi. Cậu ấy sẽ có ích cho ông bà đấy ạ."

"Cậu ta không bị bệnh gì chứ?", bà Bowie hỏi. Giọng bà cao và the thé. Nghe như nó được phát ra từ bộ ngực đồ sộ đang nhô lên sau chiếc áo khoác len như một đợt sóng ở bãi biển Higgins. "Không bị bệnh lao hay bệnh gì đấy chứ?"

"Cậu ấy đã được kiểm tra", Coslaw nói. "Tất cả các chàng trai của chúng tôi đều được kiểm tra thường xuyên. Theo yêu cầu của chính quyền."

"Cậu ta có chặt củi được không, đó là điều tôi muốn biết", ông Bowie nói. Mặt ông ta gầy hốc hác như khuôn mặt một nhà thuyết giáo thất bại trên truyền hình.

"Chắc chắn là có chứ", Coslaw trả lời. "Tôi chắc chắn rằng cậu ấy có khả năng làm những việc nặng nhọc. Những việc chân tay nặng nhọc, ý tôi là thế. Cậu ta dốt Số học lắm."

Bà Bowie mỉm cười. Toàn là môi, chẳng thấy răng đâu. "Tôi sẽ tính toán xem." Bà quay lại phía ông chồng "Hubert nhỉ?"

Ông Bowie ngẫm nghĩ, rồi gật đầu "À, ừ."

"Thôi ra ngoài nào, chàng trai trẻ Blaisdell", Thẩm Phán nói. "Tôi sẽ nói chuyện với cậu sau."

Và thế là, không cần phải nói thêm lời nào nữa, Blaze trở thành một đứa trẻ được giám hộ của nhà Bowie.

"Tao không muốn mày đi", John nói. Nó ngồi trên chiếc giường cạnh giường của Blaze nhìn Blaze nhét đồ đạc cá nhân của nó vào một chiếc túi có khóa. Hầu hết mọi thứ, cả chiếc túi kéo khóa ấy, đều là do Trại Helton phát cho.

"Tao rất tiếc", Blaze bảo, nhưng thực ra nó chẳng tiếc, hay nói đúng hơn là nó không hoàn toàn tiếc - nó chỉ ước gì Johnny có thể đi cùng mình.

"Rồi bọn họ sẽ lại đánh tao ngay sau khi mày bước chân đi. Ai cũng đánh." Mắt John đảo ngang dọc nhanh như chớp, rồi nó nặn một cái mụn mới nổi bên mũi.

"Không, không sao đâu."

"Có đấy, mày thừa biết mà."

Blaze cũng biết như vậy. Nó còn biết rằng nó chẳng làm gì được trong chuyện này. "Tao phải đi thôi. Tao hết tuổi ăn bám rồi." Nó cười với John. "Thật nực cười."

Chuyện này với Blaze xem ra rất hài hước, nhưng John thì không cười. Nó tiến đến và nắm thật chặt lấy cánh tay Blaze, như muốn khắc sâu từng đường gân thớ thịt của nó vào trí óc. "Mày sẽ chẳng bao giờ quay về nữa."

Nhưng Blaze sẽ lại quay về.

Nhà Bowie đến đón Blaze bằng một chiếc xe Ford được mông má lại vài năm trước trông rất kỳ cục. Trong cabin có chỗ cho ba người, nhưng Blaze ngồi ở phía sau. Đầu óc nó rỗng không. Hình ảnh Trại Helton nhạt nhòa dần rồi biến mất, nó cảm thấy một nỗi hân hoan lan tỏa trong tâm hồn.

Họ sống trong một trang trại chăn nuôi rất rộng lớn ở Cumberland, một phía giáp với Falmouth, phía còn lại giáp với Yarmouth. Ngôi nhà nằm trên một con đường không lát đá và ngập trong bụi đường. Chẳng sơn vẽ gì cả. Phía trước có tấm biển CHÓ CÔLI NHÀ BOWIE. Bên trái ngôi nhà là một khu nuôi chó có hai mươi tám con chó Côli chạy và sủa ăng ẳng suốt ngày. Có vài con bị ghẻ, lông rụng từng mảng trơ cả da non màu hồng lấp ló những con rận đang hút máu. Bên phải ngôi nhà là đồng cỏ nuôi gia súc um tùm. Phía sau đó có một chuồng nuôi bò rộng mênh mông và cũ kỹ. Ngôi nhà nằm trên khu đất rộng bốn mươi mẫu. Phần lớn diện tích đất là dùng để trồng cỏ, ngoài ra có bảy mẫu là trồng cây lấy gỗ.

Khi tới nơi, Blaze nhảy xuống từ chiếc xe tải với cái túi kéo khóa trong tay. Ông Bowie đưa nó đi. "Ta dành việc cho cháu đây. Cháu có muốn bổ củi không?"

Blaze nháy mắt với ông ta.

Ông Bowie chỉ về khu nuôi gia súc. Một dãy chuồng nối tiếp nhau, theo hình zíc zắc, tạo thành một cái sân trước cho ngôi nhà. Gỗ mới đốn xếp thành một đống áp vào bức vách một cái chuồng. Cây thì gỗ thích, cây thì gỗ thông, sáp chảy ra đông đặc trên thân gỗ. Phía trước đống gỗ là một thớt gỗ lâu ngày sần sùi với một cái rìu bị chôn chặt vào đó.

"Cậu có muốn bổ củi không?", Hubert Bowie nhắc lại.

"Ồ", Blaze trả lời. Đây là tiếng đầu tiên mà nó nói với họ.

Ông bà Bowie nhìn nó đi tới thớt gỗ và nhấc cái rìu ra. Nó nhìn cái rìu rồi đặt xuống cạnh súc gỗ. Chợt lũ chó chạy tới và sủa ầm ĩ không ngớt. Con Côli nhỏ nhất lại là con to mồm nhất.

"Được chứ?", ông Bowie hỏi.

"Thưa ông, cháu chưa bổ củi bao giờ."

Ông Bowie ném cái túi xuống đất rồi đi tới đặt một khúc gỗ thích lên cái thớt. Ông nhổ nước bọt vào một bàn tay, xoa xoa hai bàn tay vào nhau rồi nhấc cái rìu lên. Blaze quan sát rất kỹ. Ông Bowie chém lưỡi rìu xuống. Khúc gỗ vỡ làm đôi.

"Đấy", ông ta nói, "thành hai miếng ván rồi nhé." Ông giơ cái rìu: "Đến lượt cậu."

Blaze cặp cái rìu vào giữa hai chân, nhổ nước bọt vào một bàn tay rồi xoa hai tay vào nhau. Đang định giơ rìu lên thì nó nhớ ra là chưa đặt khúc gỗ nào lên thớt. Nó đặt một khúc lên, nhấc rìu lên rồi phang xuống. Miếng gỗ vỡ thành hai tấm ván gầm giống như ông Bowie làm. Blaze rất khoái chí. Nó nằm dài xuống đất, tai phải rung lên vì được một bàn tay khô ráp của ông Bowie bật bật cổ vũ.

"Làm thế để làm gì ạ?", Blaze ngước mắt lên hỏi.

"Không biết bổ củi thế nào", Bowie nói. "Và trước khi cậu nói ra điều đó thì đấy không phải là khuyết điểm của cậu, cả của tôi nữa. Còn bây giờ cậu thích bổ củi rồi đấy."

Phòng nó là một phòng nhỏ xây thêm trên tầng ba của trang trai. Trong phòng có một cái giường và một cái bàn làm việc, ngoài ra chẳng còn gì khác. Có một ô cửa sổ. Từ đó nhìn ra, mọi thứ uốn lượn và méo mó. Ban đêm trong phòng khá lạnh, và càng lạnh hơn về sáng sớm. Blaze chẳng bận tâm về chuyện đó, nhưng nó thắc mắc về vợ chồng Bowie. Nó cứ suy nghĩ suốt về họ. Suy nghĩ mãi thành ra không thích. Rồi không thích biến thành ghét. Ác cảm cứ dần dần lớn lên. Lớn lên theo một cách riêng. Một thứ ác cảm không pha trộn.

Mùa thu và mùa đông năm đó nó chẻ được một đống gỗ lớn. Ông Bowie ra sức dạy nó vắt sữa, nhưng Blaze chẳng làm được việc đó. Ông Bowie bảo tay nó cứng quá. Lũ bò cứ lồng lên mặc dù nó đã cố gắng thật nhẹ nhàng chúm những ngón tay vào quanh vú chúng. Rồi sự tức giận của chúng truyền sang cả nó. Sữa nhỏ giọt chầm chậm rồi ngừng luôn. Ông Bowie không bao giờ bạt tai hay cốc đầu nó vì chuyện đó. Ông không có máy vắt sữa, ông bảo nhà DeLaval lúc đầu cũng dùng cái thứ ấy, nhưng rồi phải công nhận rằng vắt sữa bằng tay là cả một tài năng. Và vì vậy, không có tài vắt sữa thì cũng chẳng đáng chê trách hơn là không có tài viết cái mà người ta vẫn gọi là thơ.

"Cậu có thể bổ củi, hãy nghĩ mà xem", ông ta nói, không cười. "Rồi cậu sẽ trở thành tài năng trong lĩnh vực ấy."

Blaze bổ củi và mỗi ngày bốn năm lần mang vào chất đầy thùng củi trong bếp. Có một cái bếp dầu, nhưng từ hồi tháng hai đến giờ Hubert Bowie không dùng đến nó nữa, vì giá dầu Số 2 quá cao. Hồi tuyết còn rơi, Blaze còn phải xúc tuyết cho quãng đường dài 90 foot, rồi nó nhổ cỏ khô, dọn chuồng gia súc, và lau sàn phòng bà Bowie.

Hàng ngày nó dậy lúc năm giờ để cho bò ăn (nếu tuyết đã tan thì phải dậy lúc bốn giờ) và ăn sáng trước khi chiếc xe buýt SAD 106 màu vàng tới để đi học. Nếu có thể thì nhà Bowie đã gạt việc đến trường đi, nhưng họ không làm được như vậy.

Hồi ở Trại Helton, Blaze đã nghe cả chuyện hay và chuyện dở về "ngoài trường học". Hầu hết những chuyện xấu là từ bọn con trai lớn đã đi Freeport High. Tuy nhiên Blaze vẫn còn quá nhỏ để làm như vậy. Nó đã đến quận A Cumberland trong thời gian ở nhà Bowie, và nó thấy thích. Nó thích các thầy cô giáo. Nó thích học thuộc thơ, rồi đứng trước lớp đọc "Nhịp cầu uốn cong cong trên dòng nước..." Khi ngâm nga những câu thơ ấy, nó mặc một chiếc áo vét đi săn kẻ ca-rô đỏ trắng, chiếc quần vải flannel màu xanh lá cây và đôi ủng cao su cũng màu xanh lá. Nó đứng hàng thứ năm đến mười một, làm che khuất tất cả các bạn cùng lớp sáu của nó, và nó cao trội lên với khuôn mặt lúc nào cũng cười nhăn nhở và vết sẹo trên trán. Không ai cười Blaze khi nó đọc thơ cả.

Nó có rất nhiều bạn dù nó là đứa được bảo hộ, vì nó không bao giờ sinh sự hay bắt nạt ai. Nó cũng không vênh váo. Trên sân chơi nó như một con gấu bông cho tất cả lũ trẻ. Thỉnh thoảng nó cho ba đứa học trò lớp một cưỡi lên vai một lúc. Nó chẳng bao giờ "lấy thịt đè người" cả. Khi chơi bóng phải năm, sáu, bảy người một lúc mới cản được bóng của nó, nó cứ lắc la lắc lư, cười toe toét, ngửa cái mặt sẹo lên trời, rồi cuối cùng ngả lăn kềnh ra trong tiếng reo hò của mọi người. Một hôm cô Waslewski, một tín đồ Thiên Chúa giáo, khi nhìn thấy nó kiệu mấy đứa bé đi quanh sân, liền gọi nó là "Thánh Francis của những người bé nhỏ."

Cô Cheney bồi dưỡng nó học các môn đọc, viết và lịch sử. Cô sớm hiểu rằng đối với Blaze, toán học (mà nó luôn gọi là Số học) là môn không thể vào đầu nó được. Có lần cô đã thử nó bằng một tấm thẻ ghi chú, thằng bé tái mặt đi và cô cảm giác nó gần như ngất xỉu.

Nó tiến triển chậm nhưng không muộn. Từ tháng 12, từ những chuyện phiêu lưu của Dick và Jane ở lớp một, nó đã chuyển sang đọc được những câu chuyện trong cuốn Những con đường dẫn tới mọi nơi của lớp ba. Cô Cheney đưa cho nó một chồng truyện hài để đem về nhà Bowie và dặn rằng đấy là bài tập về nhà. Cuốn nó thích nhất đương nhiên là Oliver Twist, nó đọc đi đọc lại cuốn đó cho đến khi thuộc làu từng chữ.

Mọi chuyện cứ thế tiếp diễn đến hết tháng giêng, và đáng lẽ còn hết mùa xuân, nếu không xảy ra hai sự kiện không may. Nó giết con chó, và nó Yêu.

Nó rất ghét lũ chó Côli, nhưng một trong những nhiệm vụ của nó là phải cho chúng ăn. Chúng là chó nhà, nhưng thiếu ăn và bị nhốt riêng trong cũi đã khiến chúng trở nên xấu xí và rất dễ bị kích động. Hầu hết chúng đều nhút nhát và rất sợ bị động vào. Chúng có thể tấn công người, sủa và gầm gừ, chỉ là để đuổi người đi và tiếp cận từ một hướng khác. Có khi chúng lao đến từ phía sau người, và có thể cắn cả vào bắp chân hay mông, rồi biến mất. Đến giờ ăn, tiếng chúng sủa ầm ĩ nghe mà phát khiếp. Ông Hubert Bowie không để ý tới chúng. Bà Bowie là người duy nhất chúng đến gần. Bà nựng chúng bằng cái giọng khàn khàn. Khi đến chỗ lũ chó, bà luôn mặc cái áo khoác đỏ, mái tóc màu hung xõa lên trên áo.

Nhà Bowie rất ít bán chó to, nhưng chó con vào mùa xuân có thể bán được tới hai trăm đô la mỗi con. Bà Bowie nhấn mạnh với Blaze về tầm quan trọng của việc chăm sóc lũ chó - của việc cho chúng ăn cái mà bà gọi là "hỗn hợp hoàn hảo." Tuy vậy bà chưa bao giờ cho chúng ăn, và thứ mà Blaze cho vào máng ăn của chúng là đồ hạ giá mua từ cửa hàng thức ăn ở Falmouth. Loại đồ ăn này có tên là Giá dành cho Chó. Ông Hubert Bowie thỉnh thoảng gọi là đồ ăn rẻ tiền hay Rầm chó. Nhưng không khi nào ông nói thế khi có bà vợ ở đó.

Lũ chó cũng biết rằng Blaze không ưa chúng, rằng nó sợ chúng, và càng ngày chúng càng hay gây gổ với nó. Khi trời trở lạnh, thỉnh thoảng chúng lại nhảy bổ vào cắn nó từ phía trước. Thỉnh thoảng nửa đêm nó lại choàng tỉnh khỏi một giấc mơ thấy lũ chó hè nhau vật nó ra ăn thịt. Sau những giấc mơ như vậy nó nằm trên giường, thở phù phù những làn hơi lạnh vào màn đêm và tự sờ soạng khắp người xem mình có chắc còn nguyên vẹn hay không. Nó biết nó còn sống, nó biết đâu là mơ đâu là thực, nhưng dường như trong bóng đêm, ranh giới giữa mơ và thực có vẻ mỏng manh hơn.

Có vài lần chúng nhào tới mạnh quá khiến nó đánh đổ cả thức ăn. Sau đó nó phải hót thức ăn lên thật khéo từ đống tuyết bẩn thỉu đầy nước đái trong khi lũ chó gầm gừ và đánh nhau xung quanh nó.

Dần dần, có một con chó trở thành thủ lĩnh trong cuộc chiến ngầm của chúng với nó. Đó là con Randy. Con này đã mười một tuổi. Nó bị chột một mắt. Răng nó như những cái ngà màu vàng xỉn. Giữa đầu nó có một đường vằn trắng kéo xuống. Nó có thể tấn công Blaze rất chính xác. Con mắt lành của Randy sáng rực trong khi mắt kia thì khác hoàn toàn, như một ngọn đèn đã tắt. Nó dùng móng đào xới những cục tuyết màu vàng trắng trên sàn chuồng chó. Nó cứ sùng sục lên như thể chỉ muốn lao thẳng vào cổ họng Blaze. Những con chó khác cũng xông lên một cách điên cuồng, nhảy lên, quay ngang quay ngửa đớp mạnh vào không khí. Rồi đột nhiên, chân con Randy dậm mạnh xuống khiến tuyết bắn tung tóe lên chiếc quần xanh của Blaze, rồi nó phi một vòng để diễn lại trò vừa qua. Nhưng rồi nó chầm chậm bò đi đến chỗ chỉ còn đủ để đánh hơi thấy Blaze.

Rồi một buổi tối cuối tháng giêng, Blaze biết con chó sẽ không bỏ qua. Nó không biết lần này cuộc tấn công có gì khác biệt, và tại sao lại thế, nhưng nó cứ ở đó. Lần này con Randy chủ định. Nó chuẩn bị nhảy lên. Và khi nó làm thế, những con khác cũng lao tới rất nhanh. Rồi mọi việc diễn ra như trong giấc mơ của cậu bé.

Con chó tiến đến, ngày càng nhanh hơn, lặng thinh. Lần này nó không cào tuyết. Không trượt, không quay đầu lại. Đùi nó căng lên, rồi hạ xuống. Thoáng một cái con Randy đã ở trong không khí.

Blaze đang mang hai xô bằng thép đựng đầy thức ăn chó. Khi nó nhìn thấy con Randy lúc đó, bỏ qua nỗi sợ hãi. Nó thả rơi hai cái xô đúng lúc Randy nhảy lên. Nó đang đeo găng tay da hở ngón. Nó chạm phải con chó trong không trung bằng nắm tay phải, ngay dưới hàm nó. Cú đấm chạy lướt qua vai con chó. Tay nó tê cóng đi. Có một vết đứt ngắn, buốt. Randy đã xoay một cú tám mươi độ hoàn hảo trong không khí lạnh giá rồi rơi đánh uỵch sau lưng nó xuống đất.

Blaze chỉ sực nhận ra lũ chó còn lại đã lặng thinh khi chúng bắt đầu sủa trở lại. Nó xách xô lên, đi tới đổ thức ăn vào máng. Như mọi lần trước, lũ chó đã chen chúc nhau húc vào máng, gầm gừ cắn xé nhau để tranh được chỗ tốt nhất trước khi Blaze đổ thêm nước vào. Nó chẳng thể làm gì, nó đã bất lực. Và khi một trong những con Côli nhỏ hơn đổ xô tới máng ăn với ánh mắt lóe lên ngu độn và thè cái lưỡi ngu độn ra khỏi cái mồm ngu độn, Blaze giật mạnh nó với đôi tay đeo găng về một phía nhanh như cắt, chân nó chệch ra và chạm xuống đất. Các con khác lùi lại.

Blaze đổ vào hai xô nước lấy từ vòi. "Đấy", nó nói. "Ướt hết rồi. Đến mà ăn."

Nó quay lại nhìn con Randy trong khi những con khác lao tới máng ăn.

Những con bọ chét rơi ra khỏi cơ thể lạnh buốt của con Randy, chết lăn lóc trên tuyết bẩn. Con mắt tốt của Randy giờ cũng đờ đẫn như con mắt hỏng. Hình ảnh ấy đánh thức trong Blaze một cảm giác hối tiếc và buồn bã. Có lẽ con chó chỉ định đùa. Chỉ cố gắng dọa nó thôi.

Và nó sợ. Đúng thế. Nó sẽ bị ma quỷ bắt vì việc này mất.

Nó xách hai cái xô trống không bước về nhà, cúi đầu. Bà Bowie ở trong bếp. Bà đang dựng tấm ván cọ rửa ở trong chậu để giặt rèm. Bà đang hát một bài thánh ca với chất giọng khàn khàn như mọi khi làm việc.

"Oái, đừng có bôi bẩn sàn nhà như thế, nào!", bà la lên, mắt nhìn Blaze. Nó chùi sàn bằng hai đầu gối. Ngực nó phập phồng trong sự buồn rầu.

"Randy chết rồi. Nó nhảy vào cháu. Cháu đã đánh nó. Đã giết chết nó."

Bà ta rút tay ra khỏi nước xà phòng và gào lên: "Randy? Randy! Randy!"

Bà chạy quanh một vòng tròn, với lấy cái áo len trên mắc gần lò sưởi rồi chạy ra cửa.

"Hubert!", bà gọi chồng. "Hubert ơi Huhert! Thằng khốn nạn." Và rồi, bà rú lên như vẫn đang hát: " OooooooOOOOO..."

Bà xô Blaze ra và chạy ra ngoài. Ông Bowie xuất hiện ở một trong rất nhiều cửa chuồng gia súc, khuôn mặt giơ xương của ông dài ra vì ngạc nhiên. Ông bước nhanh đến chỗ Blaze và túm lấy vai nó.

Chuyện gì thế?"

"Randy chết rồi ạ", Blaze nói một cách dửng dưng. Nó nhảy vào cháu và cháu đã hạ nó." "Mày đợi đấy", Hubert Bowie nói, và đi theo bà vợ.

Blaze cởi chiếc áo khoác đỏ đen và ngồi xuống chiếc ghế đẩu trong góc nhà. Tuyết rơi ra từ đôi ủng của nó tạo thành một vùng nước nhỏ. Nó chẳng quan tâm. Luồng khí nóng từ lò sưởi làm cho mặt nó rộn lên. Nó đã chẻ củi. Nó không quan.tâm.

Ông Bowie phải dắt bà vợ quay vào, vì bà đã lấy tạp dề che kín mặt. Bà thổn thức dữ dội. m vực cao khiến giọng bà như tiếng cái máy khâu.

"Đi ra cho chuồng chó", ông Bowie bảo nó.

Blaze mở cửa. Ông Bowie giúp nó đẩy cửa ra bằng mũi giày. Blaze ngã chỗ bậc tam cấp xuống sân trước, nó đứng dậy, và đi đến chuồng gia súc. Ở đó có mấy thứ: rìu, búa, một cái máy tiện, một bánh xe mài, một cái máy bào, một máy đánh cá, và mấy thứ khác mà nó không biết gọi là gì. Ngoài ra còn có mấy bộ phận ô tô là một hộp đựng tạp chí cũ. Và một chiếc xẻng xúc tuyết với cái lưỡi rộng bằng nhôm. Xẻng của nó. Blaze nhìn cái xẻng, và những chuyện về nó đã khiến cho Blaze ghét nhà Bowie một cách ghê gớm. Họ được nhận một trăm sáu mươi đô - la mỗi tháng để nuôi nó và nó làm việc nhà cho họ. Nó được cho ăn uống rất tệ. Hồi ở Trại Helton ăn uống còn khá hơn. Thật vô lý.

Hubert Bowie mở cửa bước vào. "Tao sẽ cho mày một trận", ông nói.

"Con chó đó nhảy vào cháu. Nó định cắn cổ cháu."

"Đừng nói nữa! Chỉ tổ thêm tội."

Cứ đến mùa xuân, ông Bowie lại cho một con bò cái nhà mình lai giống với con bò đực Freddy nhà Franklin Marstella. Trên tường chuồng có treo một chiếc thòng lọng để dắt bò mà ông ta gọi là thòng lọng tình yêu." Bowie. tháo dây thòng lọng ra khỏi cái chốt và giữ cho lấy nó, ngón tay luồn vào nút buộc. Cái dây da nặng quất xuống.

"Nằm úp xuống"

"Randy lao tới cổ cháu. Cháu nói với ông là nó hay là cháu..."

"Nằm úp xuống."

Blaze do dự nhưng nó không suy nghĩ. Suy nghĩ đối với nó là cả một quá trình dài. Nó thường nghe theo bản năng.

Vẫn chưa đến lúc.

Nó nằm úp xuống. Một trận đòn dài khủng khiếp nhưng nó không khóc. Sau đó nó mới khóc, ở trong phòng nó.

*

* *

Cô bé nó yêu là một học sinh lớp bảy ở trường Cumberland A tên là Mariorie Thurlow. Cô bé có mái tóc vàng, mắt xanh và chưa nhú ngực. Cô có nụ cười duyên dáng khiến đuôi mắt cong lên. Trên sân chơi, Blaze dõi nhìn theo cô. Cô bé khiến nó có cảm giác thèm khát một cách dễ chịu. Nó tưởng tượng đến cảnh nó mang sách giúp cô và bảo vệ cô khỏi bọn cướp. Những ý nghĩ ấy khiến mặt nó nóng bừng lên.

Một ngày không lâu sau sự cố con Randy và trận đánh, y tá của quận tới trường để thực hiện chương trình tăng cường miễn dịch. Học sinh đã được phát mẫu đơn từ tuần trước đó, trong đơn phụ huynh đã ký tên đăng ký tiêm chủng cho con mình. Hôm đó lũ trẻ với tờ đăng ký xếp hàng với một vẻ lo lắng đến phòng tiêm. Blaze cũng thế. ông Bowie đã gọi điện hỏi một người có trách nhiệm của trường là George Henderson xem mũi tiêm có mất tiền không. Khi biết không mất tiền ông đã ký tên đăng ký cho Blaze.

Margie Thurlow cũng đứng trong hàng. Trông cô bé có vẻ xanh xao. Blaze cảm thấy lo cho cô. Nó ước gì có thể quay lại và nắm lấy tay cô. Ý nghĩ đó khiển mặt nó nóng bừng. Nó cúi đầu lê chân.

Blaze đứng đầu hàng. Khi y tá ra hiệu cho nó vào phòng tiêm, nó cởi chiếc áo khoác ca rô đỏ đen và cởi khuy tay áo sơ mi. Y tá lấy kim ra khỏi một chiếc nồi, nhìn nó và bảo: "Cởi nốt khuy bên kia đi cậu bé. Cởi cả hai bên"

"Có đau không ạ?", Blaze hỏi, cởi nốt khuy tay áo bên kia.

"Chỉ một chút xíu thôi"

 

"Vâng", Blaze nói, và để cô ta tiêm vào cánh tay trái.

"Rồi. Bây giờ đến tay kia nữa là xong."

Blaze xoay người sang bên kia. Cô y tá tiêm một mũi khác vào cánh tay phải của nó. Sau đó nó rời phòng tiêm, quay trở lại bàn học và bắt đầu đọc một câu chuyện trong sách.

Khi Margie bước ra, đôi mắt và cả khuôn mặt cô đầy nước mắt, nhưng cô không khóc nức nở. Blaze cảm thấy tự hào về cô. Khi cô đi qua bàn nó trên đường đi ra cửa (lớp bảy học ở phòng khác), nó mỉm cười với cô. Cô cũng mỉm cười lại. Blaze góp nhặt nụ cười đó lại, đem nó theo và gìn giữ nó bao năm trời.

Đến giờ giải lao, Blaze ra ngoài sân chơi, Margie chạy phía trong ngang qua nó, thổn thức. Nó quay lại nhìn theo cô, rồi bước chầm chậm về phía sân chơi, nhíu mày, khuôn mặt không vui. Nó đi tới chỗ Peter Lavoie đang đánh bóng chày với bao tay hở ngón và hỏi xem Peter có biết có chuyện gì với Marie không.

"Glen đã đánh nó trong lúc tiêm", Peter Lavoie kể và giơ tay xoay nắm đấm, nện ba phát rất nhanh, vừa mô tả vừa bặp miệng. Vết thương như sưng tấy và bầm tím lại khiến ai cũng cảm thấy ái ngại. Trong.khi đó, Margie lại chỉ là một đứa con gái. Cậu bé tức giận đảo mắt tìm Glen.

Glen Hardy là một học sinh lớp 8, thuộc dạng tứ chi phát triển và phát phì sớm. Dáng vẻ lộc ngộc của hắn được tô điểm với mái tóc đỏ được chải dựng ngược từ trán ra phía sau và bàn tay với những thớ cơ to bè. Bố hắn là một nông dân ở miền tây. Blaze đã nhận được một cục tức chuyền tay và dường như cậu đang muốn ném ngay về phía Glen Hardy.

"Khổ mày rồi!", Peter Lavoie hét lên. "Blaze đang tìm mày đấy Glen ơi."

Thông điệp đó như được truyền đi nhanh chóng. Những đứa trẻ xung quanh bắt đầu hướng mắt về phía mà Glen và mấy cậu học sinh lớp lớn đang lóng ngóng chơi bóng rổ. Glen đang hối hả đập bóng trên sân.

 

Bà Foster, người quản lý giờ giải lao của ngày hôm đó đang bận để mắt tới lũ học sinh lớp bé chơi đu quay ở phía bên kia tòa nên nên không thể biết được chuyện gì đang diễn ra ở đây vào lúc này Glen ngước mắt nhìn thấy rõ Blaze đang hằm hằm đi tới. Hắn ném quả bóng rổ sang một bên rồi chắp tay chống nạnh nhìn Blaze. Những đứa đang chơi cũng dừng lại xếp thành một vòng cung xung quanh hắn. Những đứa học sinh lớp tám với cái tuổi mười bảy nhưng vẫn bé hơn Blaze. Chỉ có Glen là lớn hơn thôi.

Một vài cậu học sinh lớp 4, 5 rồi 6 lác đác kéo đến tập hợp phía sau Blaze, lóng ngóng kéo lại thắt lưng và những chiếc găng tay xỏ ngón như sẵn sàng hỗ trợ nghênh chiến. Lũ trẻ của cả hai phía đều được tập hợp một cách tự phát và cẩu thả. Một cuộc chiến không hẹn trước sắp bắt đầu.

"Tại sao mày lại đánh Margie Thurlow?", Blaze hất hàm hỏi.

"Tao thích thế."

"Thế hả?", Blaze tức giận và lao vào.

Glen đấm liên tiếp hai phát vào mặt Blaze trước khi cậu kịp né được. Máu bắt đầu rỉ ra từ mũi Blaze. Glen quay lại, gương mặt đầy vẻ đắc chí của kẻ thắng cuộc. Đám đông reo hò cổ vũ.

Blaze lúc lắc đầu, máu từ mặt cầu rơi vương lên lớp tuyết băm dưới sân.

Glen cười nhếch mép. "Thằng quỷ này. Đầu óc mày chứa toàn cứt đái thôi!", hắn thét lên và đập vào chính giữa vết sẹo trên trán của Blaze. Nụ cười nhếch mép như chùng xuống. Một cảm giác đau đớn chạy dọc cánh tay hắn. Không biết vì vết sẹo hay vì trán Blaze quá cứng.

Trong một giây lát mà hắn sơ hở sơ hở, Blaze đã tung ra một cú đấm trời giáng mà không cần dùng đến sức của toàn thân. Cú đấm phóng thẳng vào miệng hắn. Hắn rên lên trong cảm giác đau đớn của môi vập vào răng. Máu bắt đầu trào ra. Đám đông lại ồ lên.

Ngậm trong miệng vị mặn chát của máu, Glen quên cả tư thế phòng thủ, quên cả việc châm chọc cậu bé tội nghiệp với cái sẹo trên trán. Nắm đấm tức tối xoay sang phải rồi lại xoay sang trái.

Blaze cứ đứng thủ thế rồi nhìn thẳng vào mặt hắn. Tai cậu văng vẳng tiếng hò reo cổ vũ của đám bạn cùng lớp. Những âm thanh làm hắn nhớ tới lần đánh Randy bên chuồng chó.

Glen giáng thêm ba cú nữa làm đầu óc Blaze choáng váng. Blaze thở hổn hển, máu tiếp tục trào ra, hai tai như ù đặc, Blaze tiếp tục ném tới Glen một cú đấm trời giáng mà cảm giác ê ẩm bật lại đến tận vai cậu. Cùng lúc đó, máu trào ra từ miệng tới cằm và chảy thành vệt xuống cổ Glen. Hắn đã bị gẫy một chiếc răng. Blaze bồi tiếp một đấm vào chỗ cũ. Glen rú lên như thể một đứa trẻ bị kẹp tay vào cửa. Miệng hắn dập nát với vết thương đẫm máu. Bà Foster cuống quýt thổi còi và lao tới chỗ chúng, váy thì tung lên, chân thì như cuốn vào nhau.

Cánh tay Blaze nhói đau khi bị bà quản lý tóm lấy. Blaze đã bị thương cả ở đầu và nắm đấm nữa. Nhưng Blaze vẫn liều lĩnh lao tới với một cánh tay ê ẩm tê dại. Đó cũng là cánh tay mà Blaze đã bị thương khi đánh Randy và lần này hắn cũng liều lĩnh như thế. Cú đánh trời giáng này khiến Glen cảm thấy như bị giập cằm. Một âm thanh nhỏ phát ra nghe như tiếng xương gẫy khiến lũ trẻ đang xôn xao xung quanh im bặt. Glen run rẩy đứng không vững và trợn trắng mắt.

Tao sẽ giết mày. Blaze nghĩ. Ừ đúng đấy, tao sẽ giết mày giống như Randy vậy.

Nhưng sau đó, Glen đã cựa quậy và lẩm bẩm nói không ra hơi như người ta nói mơ trong khi ngủ vậy. Bà Foster quát Blaze đi vào lớp. Khi bỏ đi, hắn còn nghe thấy bà ta giục Peter Lavoie chạy vào phòng lấy túi cứu thương.

Blazer bị đuổi học. Chiếc mũi bị thương của cậu được cầm máu bằng một túi đá chườm còn vết thương ở tai thì được dán băng. Rồi sau đó, cậu bị tống cổ ra đường với bốn dặm đi bộ để về đến trại chó. Đi được một quãng, cậu chợt nhớ tới cái túi đựng đồ ăn trưa có một lát bánh mỳ phủ bơ kèm một quả táo mà bà Bowie thường hay phát mỗi ngày. Chừng đó thức ăn không nhiều nhưng có lẽ cũng đủ cho một chặng đường đi bộ dài mệt nhọc.

John Cheltzman vẫn nói có mà ăn còn hơn không.

Blaze bị cấm cửa khi về tới nơi, nhưng Margie Thurlow đã mang ra cho cậu một túi đồ ăn trưa. Mắt cô bé vẫn đỏ hoe vì khóc còn bộ dạng thì lúng túng như muốn nói một điều gì đó nhưng không biết phải làm thế nào. Một mắt của Blaze bị sưng tấy và mọng húp. Cậu nhìn cô bé bằng con mắt còn lại. Có vẻ như cậu đọc được những suy nghĩ của cô bé nên đã chủ động nở một nụ cười để xua đi sự bối rối.

Khi đi hết khoảnh sân, Blaze quay mặt lại tìm kiếm hình ảnh của Margie nhưng cô đã đi từ lúc nào.

"Cút đi, đồ mất dạy", Tiếng quát của Bowie vang lên.

"Không!"

Hai con mắt của Bowie mở to. Ông ta lắc đầu vài cái và hỏi lại: "Mày nói cái gì?"

"Ông không nên đánh tôi."

"Tao không ngán đâu. Biến ngay khỏi đây!"

"Không!"

Bowie tiến về phía Blaze. Cậu lùi lại vài bước, đứng tấn và cuộn ngón tay thành nắm đấm. Bowie dừng phắt lại. Ông ta đã từng chứng kiến vụ tử nạn của Randy. Cổ Randy đã từng bị gẫy như cành cây trong bão tuyết.

"Về phòng ngay, đồ khốn nạn!", Ông ta quát.

Blaze bỏ về phòng. Ngồi trên giường cậu có thể nghe thấy giọng của Bowie quát oang oang vào điện thoại. Cậu biết rõ người mà Bowie đang nói chuyện là ai.

Blaze không để ý tới nhưng chuyện kiểu như thế. Nhưng khi nghĩ tới Margie Thurlow, Cậu lại thấy bùi ngùi. Mỗi lần nghĩ tới Margie, cậu lại muốn khóc, giống như khi còn bé, cậu từng muốn khóc mỗi lần nhìn thấy một con chim đang chênh vênh trên dây điện thoại. Nhưng cậu đã không khóc được. Thay vì khóc, cậu lại đọc Oliver Twist. Và cậu đã đọc đến thuộc lòng cả những từ chưa biết. Ở bên ngoài, lũ chó đứng sủa nhặng lên vì đói. Đã đến giờ cho chúng ăn nhưng chẳng ai giục cậu cả mặc dù cậu cũng có thể làm được nếu có yêu cầu.

Cậu ngồi đọc Oliver Twist cho tới khi lão Thẩm Phán lái xe từ trại Hetton đến với ánh mắt đỏ ngầu giận giữ. Miệng ông ta chẳng có gì đặc biệt ngoài việc vắt nối cằm với mũi. Gia đình nhà Bowie thì đang đứng cùng nhau dưới ánh chiều chạng vạng.

Khi về tới Trạm Hetton, Blaze cảm thấy một cảm giác gần gũi thân quen chợt hiện về, giống như mặc một chiếc áo vẫn còn chưa khô hẳn vậy. Cậu đã phải cắn răng để kìm nén không bật ra tiếng khóc. Ba tháng trôi qua nhưng vẫn không có gì thay đổi cả. Trại Hetton vẫn hiện diện với những ngôi nhà màu đỏ xây bằng gạch mộc. Những ô cửa sổ đồng dạng hắt xuống sân những khoảng sáng màu vàng. Cả khi sân phủ tuyết hay không, vẫn là các màu ánh sáng ấy, vẫn những hình đồng dạng ấy.

Trong văn phòng, Lão Thẩm phán đang chế một chiếc roi. Blaze đã có thể nhảy vào mà cướp cái thứ công cụ đáng sợ này để vứt đi nhưng có lẽ cậu đã quá mệt mỏi. Biết đâu còn có những gã lớn hơn với những chiếc roi to hơn nữa.

Cuối cùng thì Blaze cũng được chuyển tới một phòng ngủ thông thường ở Fuller Hall. Một bên mắt vẫn sưng tấy và bầm tím. John Cheltzman đang đứng ở cửa.

"Ơ kìa Blazel!", John reo lên.

"Johny, mày thế nào rồi?"

" Chán lắm", John trả lời, "Bọn nó đập vỡ kính của tao. Bây giờ tao chẳng đọc được gì cả."

Blaze rất buồn vì phải quay lại đây, nhưng lại cũng thấy hạnh phúc vì được gặp lại Johny. "Không sao, rồi sẽ giải quyết dần thôi." Một ý tưởng lóe lên trong đầu Blaze: "Hay là chúng ta sẽ đi dọn tuyết sau mỗi cơn bão, để dành tiền để làm việc khác."

Mày tin là mình làm được chứ?"

"Chắc chắn rồi. Mày sẽ hỗ trợ tao chứ?"

"Tất nhiên rồi Blaze."

Chúng cùng bước vào phòng.

Nguồn: truyen8.mobi/t95768-blaze-chuong-9.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận