Cứu Tinh Xứ Cát Chương 4


Chương 4
Phía bên kia sân, cậu thanh niên mù dạo những nốt nhạc của một bản ballad ái tình trên cây đàn chín dây.

Sự xuất hiện của khiên trường tính và súng laze tiếp sóng có sức công phá lớn chết người với cả kẻ tấn công lẫn người bị tấn công, đã dẫn tới những nhân tố quyết định hiện nay về công nghệ vũ khí. Chúng ta không cần phải nhắc tới vai trò đặc biệt của nguyên tử học. Đúng là người ta có phần hoảng sợ với sự thật rằng bất cứ Gia tộc nào trong Đế quốc của ta đều có thể mang vũ khí nguyên tử ra phá hủy hành tinh cơ sở của năm mươi Gia tộc khác hoặc hơn. Nhưng tất cả chúng ta đều đã có kế hoạch trả đũa ghê gớm để phòng ngừa. Hiệp hội và Hội đồng Landsraad nắm giữ chìa khóa hầu kiểm soát sức mạnh này. Không, mối quan tâm của ta nằm ở việc phát triển con người thành loại vũ khí đặc biệt. Đây là một lĩnh vực gần như không giới hạn đang được một vài thế lực phát triển lên.

- Muad’dib: Bài giảng tại Cao đẳng Chiến tranh,


trích từ Biên niên sử của Stilgar.


Người đàn ông già đứng hé cửa nhìn ra với đôi mắt xanh-trong-xanh. Đôi mắt bị che phủ sự nghi ngờ cố hữu mà tất cả cư dân sa mạc vẫn dành cho những kẻ lạ mặt. Các nếp nhăn cay đắng chạy dọc viền môi, ở những chỗ cặp môi đó lộ ra qua ria mép bạc. Ông không mặc sa phục, và dễ thấy ông không để tâm tới việc này vì biết rõ hơi ẩm đang từ trong nhà trào ra qua cánh cửa mở.

Scytale cúi mình và làm ám hiệu chào nhau của những kẻ mưu đồ.

Từ đâu đó phía sau ông già vang lên tiếng đàn vi ô lông ba dây rên rỉ điệu semuta đầy thanh điệu nghịch tai. Phong thái ông không có vẻ đờ đẫn của người nghiện, cho thấy semuta là để khống chế người khác. Dù vậy Scytale vẫn thấy lạ rằng ở nơi này lại xuất hiện thói xấu tinh vi đó.

“Gửi tới ngài lời chào từ phương xa,” Scytale nói, nở nụ cười trên gương mặt dẹt hắn đã chọn cho cuộc gặp gỡ này. Giờ hắn nhận ra rằng ông già có thể nhận ra gương mặt đó. Một vài người Fremen có tuổi sống ở Xứ Cát đã từng biết Duncan Idaho.

Diện mạo hắn đã chọn từng làm hắn thấy thích thú, nhưng giờ có thể là một sai lầm. Nhưng hắn không dám đổi diện mạo ở chốn này. Hắn lo lắng liếc nhìn lên xuống con phố. Ông ta không định mời hắn vào trong sao?

“Anh biết con tôi à?” ông già hỏi.

Ít nhất thì đó cũng là một ám hiệu đáp lời. Scytale phản ứng lại theo đúng cách, mắt vẫn không ngừng cảnh giác nhìn ra xung quanh tìm các dấu hiệu đáng ngờ. Hắn không thích vị trí mình đang đứng. Con phố là một ngõ cụt kết thúc tại ngay chính ngôi nhà này. Tất cả những ngôi nhà xung quanh đều được xây cho những cựu chiến binh của cuộc Thánh chiến. Chúng hình thành nên một vùng ngoại ô của Arrakeen, kéo dài qua Tiemag tới tận Lưu vực Vương triều. Những bức tường ôm lấy con phố từ hai bên trưng ra bề mặt plasmeld trống rỗng và xám xịt bị phá vỡ bởi khoảng tối của những ô cửa đóng kín và những lời lẽ tục tĩu nguệch ngoạc đây đó. Ngay bên cạnh cánh cửa này, ai đó đã lấy phấn tuyên bố rằng một gã Beris nào đó đã mang tới Arrakis một căn bệnh ghê tởm làm hắn rụng cả của quý.

“Anh có đến cùng ai không?” ông già hỏi.

“Một mình thôi,” Scytale đáp.

Ông già thở hắt ra, vẫn do dự đến mức làm hắn muốn phát khùng.

Scytale nhắc nhở mình phải kiên nhẫn. Gặp gỡ theo cách này cũng có điểm nguy hiểm riêng của nó. Có lẽ ông ta có lý do riêng nên mới tiếp tục cư xử như thế này. Nhưng thời điểm đã tới. Mặt trời nhợt nhạt đã dừng gần như ngang trên đỉnh đầu. Người ở khu này thảy đều đóng kín cửa ở nhà để ngủ cho qua khoảng thời gian nóng nực nhất trong ngày.

Liệu có phải người hàng xóm mới làm ông ta lo ngại không? Scytale tự hỏi. Ngôi nhà sát vách vừa được phân cho Otheym, người đã từng là thành viên trong đội đặc công cảm tử Fedaykin đáng sợ của Muad’dib. Và Bijaz, người lùn-xúc-tác, chờ cùng Otheym.

Scytale đưa mắt về ông già, để ý thấy ống tay áo rỗng lủng lẳng từ vai trái và sự thiếu vắng bộ sa phục. Ông già này mang khí sắc chỉ huy. Ông ta chẳng phải là lính bộ binh thường trong cuộc Thánh chiến.

“Tôi biết tên người đến thăm tôi được chứ?” ông già hỏi.

Scytale kìm lại một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Cuối cùng thì hắn cũng sắp được chấp nhận. “Tôi là Zaal,” hắn trả lời, dùng cái tên đã được phân cho nhiệm vụ này.

“Tôi là Farok,” ông già nói. “Tôi từng là Bashar của binh đoàn Chín hồi Thánh chiến. Điều này có nghĩa lý gì với anh không?”

Scytale đọc được sự đe dọa trong những lời nói đó, liền trả lời: “Ngài sinh ra tại khu động Sietch Tabr, mang lòng trung thành với Stilgar.”

Farok dịu đi, bước sang bên. “Anh được chào đón trong nhà tôi.”

Scytale bước qua ông ta tiến vào sảnh tối lờ mờ - gạch vuông xanh trải sàn, những đường nét trang trí bằng pha lê lấp lánh trên tường. Sau sảnh là sân trong kín đáo. Ánh sáng lọt qua những bộ lọc trong mờ tỏa màu trắng đục ánh bạc như thể đêm trắng của Mặt Trăng Đầu. Cửa ra phố nghiến vào hơi ẩm của chính nó và đóng lại phía sau hắn.

“Chúng tôi là những người cao quý,” Farok nói, dẫn đường hắn về phía sân trong. “Chúng tôi không phải những kẻ bị khai trừ. Chúng tôi không sống ở làng địa hào nào… như nơi này đây! Chúng tôi có nơi sietch hợp thức sau Tường Chắn trên rặng Habbanya. Sâu cát có thể đưa chúng tôi vào Kedem, sa mạc bên trong.”

“Không phải như thế này,” Scytale đồng tình, giờ hắn nhận ra điều gì đã khiến Farok tham gia vào mưu đồ. Người Fremen khao khát những ngày đã qua và lề thói xưa cũ.

Họ bước vào trong sân.

Syctale nhận thấy Farok vẫn đang đấu tranh với sự căm ghét cùng cực dành cho vị khách tới thăm. Người Fremen không tin tưởng những đôi mắt không thuần xanh, màu xanh Ibad. Những kẻ ngoại giới, như người Fremen vẫn nói, có đôi mắt không tập trung, nhìn thấy những điều mình không nên thấy.

Nhạc semuta đã dừng khi họ bước vào. Giờ thay vào đó là tiếng đàn chín dây bập bùng, đầu tiên là chín nấc thanh âm, rồi nối tiếp theo là những nốt nhạc trong trẻo của một bài hát phổ biến ở vùng Naraj.

Rồi mắt hắn quen với ánh sáng và Scytale thấy một chàng trai ngồi bắt tréo chân trên một cái đi văng thấp dưới những mái vòm về bên phải hắn. Hai hốc mắt của người thanh niên trống rỗng. Với khả năng bí hiểm của người mù, chàng bắt đầu hát đúng lúc Scytale để mắt tới chàng. Giọng hát cao và ngọt ngào:

“Gió cuốn đất đi

Và cuốn trời đi

Và cả loài người!

Ngọn gió nào vậy?

Hàng cây đứng thẳng

Uống nơi người uống.

Ta biết quá nhiều thế giới,

Quá nhiều người,

Quá nhiều cây,

Quá nhiều gió.”

Scytale để ý thấy đó không phải là lời gốc của bài hát. Farok dẫn hắn đi ra xa chàng thanh niên về dưới những mái vòm đối diện, rồi chỉ vào những cái nệm rải rác trên nền gạch lát. Gạch lát được xếp thành hình thù những sinh vật biển.

“Đây là cái nệm đã từng được Muad’dib đặt ở sietch,” Farok nói, tay chỉ một cái đống đen tròn. “Giờ thì nó là của anh.”

“Tôi chịu ơn ngài,” Scytale nói và thả người xuống tấm đệm đen. Hắn mỉm cười. Farok tỏ ra khôn ngoan. Ông ta như một hiền nhân nói những lời trung tín dù đang nghe bài hát đầy ẩn ý và ngôn từ hàm chứa thông điệp bí mật. Ai dám phủ nhận quyền năng đáng sợ của Hoàng đế bạo chúa?

Đem lời nói của mình nhét vào giữa bài hát mà không phá vỡ nhịp điệu, Farok hỏi: “Nhạc con trai tôi chơi có làm phiền anh không?”

Scytale chỉ một cái đệm đối diện với mình, rồi dựa lưng vào cột trụ mát lạnh. “Tôi thích âm nhạc.”

“Nó bị mù sau cuộc chinh phạt hành tinh Naraj,” Farok nói. “Nó được chăm sóc ở đó, và lẽ ra nó nên ở lại. Không người phụ nữ nào thuộc dân tộc chúng tôi có thể chấp nhận nó như thế. Dù sao tôi vẫn thấy tò mò không biết mình có đứa cháu nào trên Naraj mà mình có thể sẽ chẳng bao giờ được gặp không. Anh biết về những vùng ở Naraj chứ, Zaal?”

“Hồi còn trẻ tôi từng du ngoạn tới đó cùng nhóm những người Diện Vũ anh em tôi.”

“Vậy thì anh hẳn là người Diện Vũ,” Farok nói. “Diện mạo anh làm tôi băn khoăn. Nó gợi tôi nhớ tới một người tôi từng biết ở đây.”

“Duncan Idaho?”

“Đó, đúng rồi. Một kiếm sĩ dưới trướng Hoàng đế.”

“Người ta bảo hắn đã bị giết.”

“Người ta nói vậy,” Farok đồng tình. “Thế anh thực sự là đàn ông chứ? Tôi đã nghe kể rằng người Diện Vũ là…” Ông nhún vai.

“Chúng tôi là người Jadacha lưỡng tính,” Scytale đáp. “Tùy ý chọn giới tính cho mình. Lúc này thì tôi là đàn ông.”

Farok mím môi nghĩ ngợi, rồi lên tiếng: “Tôi cho gọi đồ ăn thức uống nhé? Anh uống nước không? Hay là hoa quả đông lạnh?”

“Nói chuyện là đủ rồi,” Scytale nói.

“Ý khách bao giờ cũng là mệnh lệnh,” Farok nói và ngồi xuống trên đệm đối diện Scytale.

“Abu d’ Dhur thiêng liêng, Cha của những Con đường Thời gian Vô hạn,” Scytale nói. Rồi hắn nghĩ: Đấy! Mình đã nói thẳng với ông ta là mình được một Người Lái tàu của Hiệp hội gửi tới, khoác trên mình sự che giấu của Người Lái tàu.

“Ba lần thiêng liêng,” Farok nói, đan hai tay vào nhau đặt trong lòng theo đúng lễ nghi. Đó là hai bàn tay già nua, gân guốc.

“Thứ nhìn thấy từ xa chỉ để lộ những điều cơ bản nhất,” Scytale nói, biểu lộ rằng hắn muốn thảo luận về Thành lũy pháo đài của Hoàng đế.

“Cái gì đen tối và xấu xa thì có thể bị thấy là xấu xa từ bất cứ khoảng cách nào,” Farok nói, nhắc rằng nên trì hoãn.

Tại sao? Scytale phân vân. Nhưng hắn hỏi: “Sao con trai ngài lại bị mù?”

“Quân phòng ngự Naraj dùng bom Thạch thiêu,” Farok nói. “Con tôi ở quá gần. Nguyên tử học đáng nguyền rủa! Ngay cả Thạch thiêu cũng nên bị luật pháp cấm.”

“Nó đi ngoài mục đích của pháp luật,” Scytale đồng ý. Rồi hắn nghĩ: Thạch thiêu tại Naraj! Chúng ta không được biết điều đó. Sao lão già này lại nhắc tới Thạch thiêu ở đây?

“Tôi muốn mua mắt Tleilaxu cho nó từ thượng cấp của anh,” Farok nói. “Nhưng trong quân đội thường lưu truyền rằng mắt Tleilaxu làm chủ nhân của chúng trở thành nô lệ. Con tôi bảo tôi rằng những đôi mắt này làm từ kim loại còn nó là từ máu thịt, cho nên sự kết hợp đó là sai trái.”

“Nguyên lý của một vật phải phù hợp với ý nghĩa gốc của nó,” Scytale tìm cách lái cuộc nói chuyện trở về thông tin hắn muốn có.

Farok mím chặt môi, nhưng rồi ông ta gật đầu. “Cứ nói thẳng nếu anh muốn. Chúng ta phải đặt lòng tin vào Người Lái tàu của anh.”

“Ngài đã bao giờ vào Vương thành chưa?” Scytale hỏi.

“Tôi từng ở đó dự yến tiệc chào mừng chiến thắng Molitor. Trong mớ đá đó rất lạnh dù đã có những lò sưởi không gian tốt nhất của giới Ixian. Đêm trước đó thì chúng tôi ngủ trên nền đất cao ở Đền Alia. Ông ta trồng nhiều cây ở đó, anh biết đấy, cây từ nhiều thế giới. Bọn Bashar chúng tôi mặc áo choàng xanh đẹp nhất và có bàn sắp riêng cho mình. Chúng tôi ăn uống quá no say. Vài điều tôi thấy khiến tôi ghê tởm. Các thương binh lê bước đi vào, chống nạng. Tôi không nghĩ Muad’dib của chúng ta lại biết ông ta đã biến bao nhiêu người thành tàn phế.”

“Ngài phản đối buổi tiệc?” Scytale hỏi. Hắn từng biết về những cuộc truy hoan của người Fremen bị kích động bởi bia tẩm hương dược.

“Nó không giống như sự hòa hợp tâm hồn chúng tôi thường có ở sietch,” Farok nói. “Không có tau. Để giải trí, binh lính có tụi nữ nô, và đám đàn ông kể cho nhau nghe những chuyện chinh chiến và thương tích của mình.”

“Vậy là ông đã ở trong đống đá lớn đó,” Scytale nói.

“Muad’dib bước ra với chúng tôi trên ban công. ‘Cầu cho vận may đến với tất cả chúng ta,’ ông ta nói. Lời chào theo tập tục của sa mạc lại được nói ở nơi như thế!”

“Ngài có biết những phòng riêng của ông ta ở đâu không?” Scytale hỏi.

“Ở sâu bên trong,” Farok trả lời. “Đâu đó sâu bên trong. Tôi được kể rằng ông ta và Chani sống như du mục ngay trong chính những bức tường Vương thành. Đại sảnh là nơi ông ta ra gặp công chúng. Ông ta có những hội trường tiếp đón và chỗ họp trang trọng, rồi cả một chái nhà cho vệ sĩ riêng, nơi tổ chức nghi lễ và một khu vực để giao tiếp ở bên trong. Tôi nghe nói sâu dưới pháo đài có một căn phòng, ở đó ông ta nuôi một con trùng bị hào nước hãm quanh để làm nó nhiễm độc. Đó là nơi ông ta đoán tương lai.”

Những chuyện hoang đường lẫn cả vào sự thật, Scytale nghĩ.

“Bộ máy cai trị kè kè bên ông ta ở khắp nơi,” Farok lầm bầm. “Thư ký, người hầu, và người hầu cho người hầu. Ông ta chỉ tin những người rất thân cận với ông ta hồi trước, như là Stilgar.”

“Ông ta không tin ông.”

“Tôi nghĩ ông ta quên mất sự tồn tại của tôi rồi,” Farok nói.

“Thế ông ta ra vào Vương thành như thế nào?” Scytale hỏi.

“Ông ta có một sân bay nhỏ xíu cho tàu chim nhô ra khỏi một bức tường trong,” Farok trả lời. “Tôi được biết là Muad’dib không cho phép người khác điều khiển máy bay đáp xuống đó. Người ta vẫn bảo rằng chỉ một chút tính toán sai trong cuộc hạ cánh cũng đủ để máy bay lao theo vách tường dựng đứng xuống một trong những khu vườn bị nguyền rủa phía dưới.”

Scytale gật đầu. Điều này có lẽ là đúng. Đường vào thành của Hoàng đế qua đường không chắc hẳn phải có biện pháp an ninh nào đó. Người nhà Atreides đều là những phi công xuất chúng.

“Ông ta cài những thông điệp chuyển sóng vào thuộc hạ của mình,” Farok nói. “Cấy thiết bị dịch sóng vào cơ thể là hạ thấp phẩm giá con người. Giọng nói của một người chỉ nên do chính người đó chi phối. Thanh âm của nó không nên ẩn chứa những thông điệp của người khác.”

Scytale nhún vai. Những thế lực lớn trong thời đại này đều dùng phương thức chuyển sóng. Chẳng ai biết được giữa người gửi và người nhận sẽ có những chướng ngại vật gì. Phương thức chuyển sóng thách thức ngành mật mã học chính trị vì nó dựa vào sự bóp méo tinh vi những mẫu thanh âm tự nhiên vốn có thể bị xáo trộn cực kỳ phức tạp.

“Ngay cả các nhân viên thuế của ông ta cũng dùng phương thức này,” Farok phàn nàn. “Vào thời tôi, thức chuyển sóng chỉ được cấy vào những động vật bậc thấp.”

Nhưng thông tin về thu nhập phải được giữ kín, Scytale nghĩ. Đâu phải chỉ một nền thống trị đã sụp đổ vì người dân phát hiện ra quốc khố giàu có đến thế nào.

“Thái độ của quân đội Fremen về cuộc Thánh chiến của Muad’dib giờ thế nào?” Scytale hỏi. “Họ có phản đối việc biến Hoàng đế của mình thành một vị thánh không?”

“Hầu hết còn chẳng nghĩ tới chuyện đó,” Farok trả lời. “Họ nghĩ về cuộc Thánh chiến cũng như tôi đã nghĩ về nó - hầu hết bọn họ. Đó là một nguồn trải nghiệm, phiêu lưu và tài lộc lạ lùng. Cái chốn địa hào dơ dáy mà tôi đang sống này” - Farok chỉ cái sân - “tốn sáu mươi lida hương dược. Chín mươi kontar! Đã từng có lúc tôi thậm chí còn không tưởng tượng ra nổi sự giàu có tới mức này.” Ông lắc đầu.

Phía bên kia sân, cậu thanh niên mù dạo những nốt nhạc của một bản ballad ái tình trên cây đàn chín dây.

Chín mươi kontar, Scytale nghĩ. Thật lạ lùng. Giàu nứt đổ vách, rõ ràng là vậy. Ngôi nhà nhỏ của Farok sẽ là lâu đài ở nhiều thế giới khác, nhưng mọi thứ đều là tương đối, kể cả đơn vị kontar. Như Farok đây, liệu ông ta có biết từ đâu ra hệ đo lường mà ông ta dùng để đo đống hương dược này không? Có bao giờ ông ta tự nghĩ rằng từng có thời một kontar rưỡi không quá sức tải của một con lạc đà? Có lẽ là không. Farok hẳn thậm chí còn chưa bao giờ nghe tới lạc đà hay thời đại Hoàng kim của Trái đất.

Với những lời nói hòa nhịp đến kỳ quặc với giai điệu cây đàn chín dây của con trai, Farok nói: “Tôi từng sở hữu một con dao pha lê, những vòng nước mười lít, cây thương từ đời cha truyền lại, máy pha cà phê, một cái lọ thủy tinh đỏ lâu đời hơn bất cứ ký ức nào ở sietch. Tôi có phần trong số hương dược chúng tôi thu được, nhưng không có tiền. Tôi giàu có mà không hề biết. Tôi đã có hai người vợ: một người thô xấu mà tôi thương yêu, một người ngu xuẩn và ngoan cố, nhưng có gương mặt và dáng hình của thiên thần. Tôi từng là một vị Naib người Fremen, người cưỡi sâu cát, bậc thầy về cát và thuyền lớn.”

Người thanh niên bên kia sân tăng nhịp khúc nhạc.

“Tôi từng biết nhiều điều mà không cần phải nghĩ về chúng,” Farok nói. “Tôi biết có nước sâu dưới cát, bị trói buộc ở đó bởi những Ngài Tạo Bé. Tôi biết tổ tiên mình đã hiến tế trinh nữ cho Shai-hulud… trước khi Liet-Kynes ngăn chúng tôi lại. Chúng tôi dừng lại như vậy thật sai lầm. Tôi đã thấy báu vật trong miệng một con sâu. Linh hồn tôi có bốn cửa, và tôi biết rõ cả bốn.”

Ông ngừng lời, trầm ngâm.

“Rồi gã Atreides tới cùng bà mẹ phù thủy,” Scytale nói.

“Người họ Atreides tới,” Farok tán đồng. “Người chúng tôi đã gọi là Usul trong sietch, cái tên riêng của ông ta mà chỉ chúng tôi sử dụng với nhau. Muad’dib của chúng tôi, Mahdi của chúng tôi! Và khi ông ta kêu gọi Thánh chiến, tôi là một trong những người đã hỏi, “Tại sao tôi lại phải đi đánh nhau ở đó? Tôi chẳng có thân thích nào ở đó cả.” Nhưng những người khác ra đi - những thanh niên, bạn bè, bằng hữu từ thời thơ ấu. Khi họ trở về, họ nói về phép phù thủy, về quyền lực nơi Đấng cứu thế mang họ Atreides này. Ông ta chống lại kẻ thù của chúng tôi, gia tộc Harkonnen. Liet-Kynes, người đã hứa cho chúng tôi thiên đường trên hành tinh, ủng hộ ông ta. Ai cũng bảo rằng người họ Atreides này đến đây để thay đổi thế giới của chúng tôi, chấn chỉnh càn khôn, rằng ông ta là người khiến hoa vàng nở giữa đêm khuya.”

Farok đưa tay lên, xem lòng bàn tay mình. “Người ta chỉ lên Mặt Trăng Đầu mà nói: ‘Linh hồn ngài ở đó.’ Vì vậy mà ông ta được gọi là Muad’dib. Lúc ấy tôi không hiểu gì cả.”

Ông hạ tay xuống và nhìn con trai qua sân. “Trong đầu tôi rỗng tuếch. Tư tưởng chỉ có ở trong trái tim, trong bụng dạ tôi.”

Nhịp nhạc nền lại gấp gáp hơn.

“Anh biết tại sao tôi lại nhập ngũ tham gia Thánh chiến không?” Đôi mắt già nua trân trối nhìn Scytale. “Tôi nghe nói có một thứ gọi là biển. Thật khó mà tin được có biển khi anh chỉ sống ở đây giữa Xứ Cát này. Chúng tôi không có biển. Những người con của Xứ Cát chưa bao giờ biết đến biển. Chúng tôi có bẫy gió. Chúng tôi thu gom nước cho sự thay đổi lớn lao mà Liet-Kynes đã hứa với chúng tôi… thay đổi lớn mà Muad’dib mang tới chỉ với cái vẫy tay. Tôi đã tưởng tượng tới dòng qanat, nước chảy ngang dọc miền đất theo con kênh. Rồi từ đó, tôi có thể hình dung ra một con sông. Nhưng biển ư?”

Farok nhìn lớp mái sân bằng kính trong mờ như thể muốn thăm dò vũ trụ ngoài kia. “Biển,” ông nói nhỏ, “nằm ngoài khả năng tôi có thể mường tượng. Thế nhưng, những người tôi biết kể lại họ đã thấy điều kỳ diệu này. Tôi nghĩ là họ nói dối, nhưng cảm thấy mình phải tự chứng thực. Vì lý do đó mà tôi nhập ngũ.”

Người thanh niên gảy to hợp âm cuối trên chiếc đàn chín dây, rồi bắt nhịp vào bài ca mới với giai điệu nhấp nhô kỳ lạ.

“Thế ngài có tìm thấy biển không?” Scytale hỏi.

Farok vẫn im lặng, và Scytale nghĩ ông già không nghe thấy lời mình. Nhạc đàn chín dây lên bổng xuống trầm quanh họ như sóng thủy triều. Farok thở theo nhịp ấy.

“Có một buổi hoàng hôn,” Farok nói ngay sau đó. “Một trong những họa sĩ già hẳn đã vẽ về hoàng hôn như vậy. Nó ửng đỏ, màu đỏ giống như màu thủy tinh trong lọ của tôi. Nó vàng… xanh. Nó ở trên thế giới họ gọi là Enfeil, thế giới nơi tôi đã dẫn dắt quân đoàn của mình đến thắng lợi. Chúng tôi đi qua con đường độc đạo trên núi, không khí sũng nước tới buồn nôn. Tôi khó khăn lắm mới thở được. Rồi phía dưới tôi là thứ mà bạn bè tôi đã kể: nước xa hết tầm mắt và còn kéo dài tít tắp. Chúng tôi hành quân xuống đó. Tôi lội xuống và uống. Nước đắng và làm tôi thấy bệnh. Nhưng điều kỳ diệu ấy thì không bao giờ rời khỏi tôi.”

Scytale thấy mình thấu hiểu sự kính sợ của ông già Fremen.

“Tôi ngâm mình vào trong biển,” Farok nói, nhìn xuống những thủy sinh vật khảm trên gạch lát sàn. “Có người thì lặn xuống dưới vùng nước ấy… người khác lại trồi lên. Tôi tưởng như mình nhớ lại một quá khứ chưa từng tồn tại. Tôi nhìn xung quanh với đôi mắt có thể chấp nhận tất cả… bất cứ điều gì. Tôi thấy một cơ thể trong nước - xác một quân phòng thủ mà chúng tôi đã giết. Cạnh đó có súc gỗ được dựng lên trên nước ấy - một phần của một thân cây lớn. Giờ tôi có thể nhắm mắt lại vẫn thấy súc gỗ ấy. Một đầu nó bị đốt đen sì. Và dưới nước có mẩu vải - chẳng hơn gì mớ giẻ vàng vọt… rách nát, bẩn thỉu. Tôi nhìn tất cả những thứ đó và hiểu tại sao chúng lại xuất hiện ở đó. Là để tôi thấy chúng.”

Farok chầm chậm quay lại, nhìn vào mắt Scytale. “Vũ trụ này vẫn chưa hoàn tất, anh biết đấy.”

Người này ba hoa nhưng sâu sắc, Scytale nghĩ. Rồi hắn nói: “Tôi thấy nó đã gây cho ngài ấn tượng sâu đậm.”

“Anh là một người Tleilaxu,” Farok nói. “Anh đã thấy nhiều biển. Tôi chỉ thấy biển này, song tôi biết một điều về biển mà anh không biết.”

Scytale thấy mình bị kẹp trong một cảm giác không yên kỳ lạ.

“Mẹ Hỗn mang sinh ra từ biển,” Farok nói. “Một linh mục Qizarate đứng gần đó khi tôi từ dưới nước bước lên, ướt đẫm. Hắn không xuống biển. Hắn đứng trên cát… và cát ướt… đứng đó, cùng nỗi sợ, với một vài tay lính của tôi. Hắn nhìn tôi với ánh mắt biết rằng tôi đã học được điều gì đó mà hắn bị khước từ. Tôi đã trở thành một sinh vật biển, và tôi làm hắn hoảng sợ. Biển giải thoát cho tôi khỏi cuộc Thánh chiến, và tôi nghĩ hắn đã thấy điều này.”

Scytale nhận ra nhạc đã dừng đâu đó trong khi ông già kể chuyện. Hắn thấy lo lắng vì mình không nhận ra nhạc đã dừng vào khoảnh khắc nào.

Cứ như thể có liên quan tới lời kể, Farok nói: “Cánh cổng nào cũng được canh gác. Không có đường nào vào Vương thành.”

“Đó là điểm yếu của nó,” Scytale nói.

Farok ngẩng cổ săm soi.

“Có đường vào,” Scytale giải thích. “Hầu hết mọi người, chúng ta có thể hy vọng là kể cả Hoàng đế, đều tin ngược lại… 16cc đó là lợi thế của chúng ta.” Hắn dụi môi, cảm thấy lạ lùng với nét mặt hắn đã chọn. Sự im lặng của người chơi nhạc làm hắn bồn chồn. Có phải con trai của Farok đã truyền tín hiệu xong rồi không? Cố nhiên phương cách là như thế: thông điệp được cô đọng lại và truyền cùng tiếng nhạc. Nó đã đóng dấu vào hệ thần kinh của Scytale, rồi sẽ được khởi động vào đúng lúc nhờ thiết bị chuyển sóng gắn vào vỏ thượng thận của hắn. Nếu giai điệu kết thúc, hắn đã trở thành vật chứa của những ngôn từ hắn không hề biết. Hắn là vật chứa óc ách dữ liệu: từng tế bào của mưu đồ này trên hành tinh Arrakis, từng cái tên, từng mật hiệu liên lạc - tất cả những thông tin trọng yếu.

Với những thông tin này, họ có thể đương đầu với Arrakis, bắt một con sâu cát, nuôi cấy melange đâu đó ngoài ảnh hưởng của Muad’dib. Họ có thể phá vỡ sự độc quyền, và làm Muad’dib sụp đổ. Họ có thể làm nhiều điều với những thông tin này.

“Chúng tôi đã có con bé ở đây,” Farok nói. “Anh muốn thấy con bé luôn không?”

“Tôi gặp cô ta rồi,” Scytale nói. “Tôi đã nghiên cứu cô ta cẩn thận. Cô ta đang ở đâu?”

Farok bật ngón tay.

Người thanh niên cầm chiếc vi ô lông ba dây lên, kéo vĩ. Nhạc semuta rên rỉ vang lên từ những dây đàn. Như thể bị hút bởi tiếng nhạc, một thiếu nữ mặc áo thụng xanh xuất hiện ở cửa phía sau nhạc sĩ. Sự thẫn thờ dưới tác dụng của chất gây nghiện đầy trong đôi mắt thuần màu xanh Ibad. Cô ta là người Fremen, nghiện hương dược, và giờ bị kẹt trong một loại kìm kẹp không thuộc thế giới của mình. Nhận thức của cô ta nằm sâu trong điệu semuta, lạc lối đâu đó, đê mê với tiếng nhạc.

“Con gái của Otheym,” Farok nói. “Con trai tôi cho con bé chất gây nghiện với hy vọng chiếm được một phụ nữ thuộc dân tộc mình dù mắt nó mù. Anh thấy đấy, thắng lợi của nó trống rỗng. Semuta đã cướp đi cái mà nó mong đạt được.”

“Cha cô ta không biết à?” Scytale hỏi.

“Đến con bé còn không biết,” Farok nói. “Con trai tôi tạo ra những ký ức giả mà con bé nhận lấy mỗi khi tới đây. Con bé nghĩ là mình yêu nó. Đó là điều mà gia đình con bé tin. Họ giận dữ vì thằng bé không phải một người hoàn thiện, nhưng họ sẽ không can thiệp, dĩ nhiên.”

Nhạc nhỏ dần rồi tắt hẳn.

Người nhạc công ra dấu và thiếu nữ ngồi xuống cạnh anh ta, nghiêng người lại gần để nghe những điều anh ta thì thầm.

“Anh định làm gì với con bé?” Farok hỏi.

Một lần nữa, Scytale quan sát cái sân. “Trong nhà này còn ai nữa?” hắn hỏi.

“Tất cả đang ở đây rồi,” Farok nói. “Anh vẫn chưa cho tôi biết anh định làm gì với con bé. Con trai tôi muốn biết điều đó.”

Như để trả lời, Scytale vươn tay phải ra. Từ ống tay áo thụng một cái kim lấp lánh phóng ra đâm vào cổ Farok. Không la hét, không thay đổi tư thế. Farok sẽ chết trong một phút, nhưng giờ ông ta ngồi bất động, đông cứng vì độc dược trên mũi kim.

Scytale chậm rãi đứng dậy bước qua sân tới chỗ nhạc sĩ mù. Cậu thanh niên vẫn đang thì thầm với cô gái khi mũi kim đâm vào mình.

Scytale nắm cánh tay thiếu nữ, nhẹ nhàng kéo cô ta dậy, thay đổi diện mạo trước khi cô ta kịp nhìn hắn. Cô ta đứng thẳng người, và chăm chú nhìn vào hắn.

“Có chuyện gì vậy, ông Farok?” Cô ta hỏi.

“Con trai ta mệt và cần nghỉ ngơi,” Scytale nói. “Đi thôi. Chúng ta sẽ ra bằng cửa sau.”

“Bọn con đã có cuộc nói chuyện thật hay,” cô ta nói. “Con nghĩ con đã thuyết phục được chàng lắp mắt Tleilaxu. Nó sẽ khiến chàng lại đáng mặt đàn ông.”

“Chẳng phải ta đã nói thế bao lần sao?” Scytale hỏi, giục cô ta đi vào hậu viện.

Hắn để ý một cách tự hào rằng giọng hắn hợp chuẩn xác với diện mạo. Đó hiển nhiên là giọng của ông già Fremen, người lúc này hẳn đã chết.

Scytale thở dài. Hắn tự nhủ là hắn đã nương tay, và các nạn nhân chắc chắn đã biết trước về hiểm họa. Giờ người thiếu nữ này sẽ cần được ban cơ hội.

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật một cách nhanh nhất !

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/26247


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận