Em Còn Muốn Chừng Nào Anh Còn Nhớ Chương 13

Chương 13
Anh đến khách sạn Bưu điện, cái khách sạn nhỏ mà cô gái trong bộ đồ xám dẫn con chó gần nhà ga đã chỉ cho anh.

Ở bên ngoài, tòa nhà bị bong tróc và hư mòn vì mưa và lạnh; ở bên trong, các bức tường được phủ kín bằng những vầng hào quang dường như sinh ra tại một điểm cố định - một kiểu dấu vân tay gần như màu đen - rồi tỏa ra thành những vòng tròn đồng tâm. Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, anh có cảm giác những vầng hào quang ấy như lan rộng hơn nữa qua một đêm, chiếm hết không gian, nhưng điều đó không làm anh khó chịu. Anh có cảm giác nhìn thấy trong đó một kiểu bản đồ bầu trời; ở đây, sự khác biệt giữa bên trong và bên ngoài có vẻ không rõ nét như những nơi khác, và anh hít thở tốt hơn. Khi chạm nhẹ lên các bức tường, một lớp bụi mốc kh bám vào các ngón tay anh, một lớp bụi màu trắng, và đôi khi anh mơ - nếu như anh cũng quệt tay như thế lên bầu trời, nếu như anh đặt bàn tay, khuôn mặt, đôi môi anh lên bầu trời, không biết lớp bột trắng dính vào anh sẽ có mùi như mùi bụi, mùi tầng thấp của rừng, hay sẽ là mùi của tuyết, của rãnh nước, của nước mưa đọng lại trong

hốc đá?

 

Khách sạn này không giống với những khách sạn mà những người đi du lịch thường kéo đến, và đó cũng là lý do mà anh quyết định chọn để ở. Một số phòng vẫn trống rỗng và một số khác thì chật ních vào buổi tối, khi người bảo vệ chui vào căn phòng nhỏ và mở tivi to hết cỡ trong đó, nhiều người nhập cư bất hợp pháp mới chia nhau chỗ ngủ trên giường hay ngay dưới nền đất, cuộn tròn trong chiếc áo khoác. Đó là những người đàn ông không nói tiếng của anh, cũng không phải thứ tiếng của đất nước này và chỉ biết gật đầu mỗi lần gặp anh. Buổi tối, khách sạn sặc mùi của món ragu nhiều gia vị được nấu trên những cái bếp tạm bợ. Anh nghe thấy những mẩu hội thoại bằng tiếng nước ngoài và những tiếng cười kìm nén, những âm thanh ấy đi cùng anh cả trong giấc ngủ.

Ở tận cùng hành lang khách sạn, có một cánh cửa nhỏ bằng kim loại đã han gỉ, dường như đã không được mở ra từ nhiều năm. Trong chiếc hộp đồ nghề, trong số mấy trăm chiếc chìa khóa mà anh đã thuê đánh lại từ nhiều năm qua, anh thấy một chìa có thể mở được cánh cửa đó. Anh đã mở cánh cửa ngay buổi tối anh đến, khi khách sạn chìm trong giấc ngủ, và cũng như mọi lần, anh nhớ đến bà anh, như thể tất cả những chiếc chìa khóa kia được lấy ra từ túi của bà vậy.

Cánh cửa mở ra một cầu thang bằng gỗ, có khoảng chục bậc, dẫn lên mái nhà và bầu trời đêm bao la. Anh ở trên đó thật lâu, đôi chân trần đứng trên máng kẽm ẩm ướt vì mưa, đứng yên bất động, chùm chìa khóa móc trên ngón tay; gió thổi làm các chìa va vào nhau tạo nên những âm thanh khe khẽ.

 

Anh tự cho phép mình nghỉ ngơi vài ngày trước khi bắt đầu làm việc, để cọ rửa những miếng kẽm mà từ đó ánh sáng phản chiếu có thể đốt cháy mắt anh cho dù anh có đeo kính phủ than, dường như những miếng kẽm dài cả mấy cây số, anh tưởng tượng hàng mấy chục gia đình sinh sống phía dưới hoàn toàn giống nhau, đều có cùng suy nghĩ, cùng ước mơ, đều được điều hòa không khí bằng ánh sáng mặt trời, độ nóng hay lạnh như nhau dẫn truyền từ mảng kim loại trải dài như vô tận.

Anh khám phá thành phố, đầu tiên là trên các con phố, sau đó là trên các mái nhà. Anh rời khỏi phòng khi những tia sáng đầu tiên của ngày mới xuất hiện và đi lang thang, đôi mắt nhìn lên cao, cho đến khi tìm được một mái nhà thu hút sự chú ý của anh. Mái nhà ấy phải đủ cao để có thể nhìn ra xa tận chân trời. Đường trèo lên cũng phải thuận lợi, có sự trợ giúp của một thân cây, một máng nước, những kẽ nứt để những ngón tay mảnh - những ngón của thạch sùng, đôi khi anh tự nhủ như thế, dài và đặc biệt là dẹt ở phần đầu, như những con dao phết, như thể chúng đang thích ứng dần dần với cách sử dụng của anh vậy - tìm thấy chỗ để bám. Anh tự biết có thể chinh phục được những tòa nhà cao nhất và được bảo vệ nghiêm ngặt nhất. Nhưng anh chỉ định thực hiện kiểu leo trèo như thế khi được người ta trả tiền thuê làm hoặc khi anh chắc chắn không bị nhìn thấy, do một kiểu mê tín, như là anh phải giữ ngón nghề này - bởi vì nó là duy nhất - ngón nghề được bảo vệ bởi tấm bùa của tiền bạc hay sự bí mật.

Chỉ vài giây là đủ để anh leo lên mái những ngôi nhà đã lựa chọn. Những ngôi nhà ấy có cánh cửa sổ hay đóng lại. Anh biết cách làm sao để bước trên mái ngói mà không gây tiếng động và không đánh thức những người đang ngủ. Anh tưởng tượng họ đang say sưa dưới chân anh giống như những con cá dưới lớp đá lạnh; anh cũng thấy vui vui khi nghĩ rằng họ lờ mờ cảm nhận được sự hiện diện của anh, nhờ vào một linh cảm thừa hưởng từ tổ tiên của con người, và lúc ấy sẽ mơ về tiếng tuyết rơi hay tiếng mùa hè oi bức đè nặng lên mái nhà họ. Bản thân anh phán đoán được bằng trực giác vào thời điểm nào họ thức dậy và trước khi họ mở cửa, anh biến mất, nhảy trên mái nhà kề bên, rồi tiếp tục một mái nhà khác.

Khi ở trên cao, anh lấy cuốn sổ luôn mang theo bên mình và ghi chép bằng kiểu chữ mã hóa. Anh đã quen dùng kiểu chữ này, đến nỗi quên mất cả cách viết chữ thông thường chỉ còn biết viết một cách vụng về tên anh phía dưới những bản hợp đồng lao động. Đây là những mô tả và biểu đồ chỉ hướng gió, lượng mưa hay cường độ nắng, những gì mà bầu trời ngày hôm ấy mang theo - những chiếc túi nilông, tờ giấy báo, những quả bóng bay, vô vàn các hạt bụi nhỏ không nhìn thấy được, nhưng nó khiến cả bầu trời nhuộm một màu đất son.

Anh miêu tả tất cả những thứ đó tỉ mỉ, chính xác từ giờ, phút và giây. Có một ngày, một người công nhân ở chung lán trại với anh, luôn tò mò quan sát anh đã hỏi anh thứ mà anh tìm kiếm, anh không biết trả lời sao. Anh rất quí người công nhân đó, trước đây anh ta từng là kỹ sư của một đất nước và đã ra đi vì những lý do không thể nói ra. Đây là lần đầu tiên có một người bày tỏ mối quan tâm đến việc anh làm, và anh đã cố gắng giải thích với anh ta, nhưng thực sự là anh phải giải thích gì đây? Thực tế là anh không tìm kiếm gì hết, anh đã nói, một ngày nào đó, ý nghĩa của hàng ngàn ký hiệu ấy có thể trở lại với anh, hoặc có thể không, nhưng điều đó không hề quan trọng. Tay cựu kỹ sư chăm chú nghe anh nói, rồi bật cười. Anh là một nhà thơ, anh ta nói. Sau khi Người Da Đỏ đã dành một khoảng thời gian trong đêm để giảng giải các phương trình và biểu đồ của anh, thì tay kỹ sư đã nhìn anh khác hẳn, anh ta thở dài và lắc đầu. Dù sao thì anh cũng vẫn là nhà thơ - anh ta tuyên bố - một nhà thơ bác học.

Người công nhân kia bị chết hai ngày sau đó vì bị ngã từ giàn giáo xuống. Người Da Đỏ buồn bã nói một mình rằng, anh ta đã không xem các phương trình của a nh với sự chăm chú đầy đủ để hiểu được các độ cao.

Khi một năm trôi qua - hay khi những tờ giấy đã quá dày để có thể đựng trong chiếc ống bằng nhựa mà anh thường cuộn giấy cất vào mỗi lần di chuyển - anh gập chúng cẩn thận trong các bìa bọc rồi gửi chúng đến địa chỉ hộp thư mà anh đã mở từ nhiều năm trước tại một thành phố cảng nhỏ của một đất nước nay đã cách xa. Anh thích thú tưởng tượng, những phong bì này rồi sẽ nằm chất đống trong sự im lặng của cái văn phòng bưu điện ấy - nơi mà cái quạt trần lờ đờ quay và trong trí nhớ của anh, chỉ có những xác ruồi bậu trên cửa sổ. Ngày đó, anh nghĩ rằng cái thành phố ấy, cái văn phòng ấy như thể ở bên ngoài thời gian và không có nơi nào tốt hơn để anh lưu giữ những nghiên cứu của mình. Anh không biết hiện giờ có bao nhiêu phong bì, và cũng không biết bao giờ anh có thể trở lại nhận chúng tại cái thành phố bé nhỏ ấy, một nơi như là ở tận cùng của thế giới.

Đôi khi anh đi từ đầu này sang đầu kia thành phố, rồi đến ngôi nhà cuối cùng, bầu trời trải ra tự do và trinh nguyên mà không có một ống khói, hay một cột ăngten nào che khuất tầm mắt. Anh có cảm giác như đứng trên vách đá bên bờ biển và thế giới được trải rộng trước mặt anh; nước mắt anh thường trào lên mặc dù anh đã hàng chục, hàng trăm lần nhìn thấy cảnh này.

Gần khách sạn anh ở có một khu đất hoang, phía trong bờ rào, bên cạnh đám cỏ dại xanh tốt còn có nhiều cây hoa đang nở. Anh thích mỗi buổi sáng đứng trên mái hiên nhô ra để quan sát sự thay đổi của khoảng trời phía trên bãi đất hoang, mà ở đó rác rưởi và có thể là cả xác chết của những con vật nhỏ bé tỏa ra một sự bức bối làm tăng thêm không khí ngột ngạt của đất vốn đã bị mặt trời hâm nóng. Đây là mảnh đất vuông đến kỳ lạ được thành phố bao quanh bốn mặt, và nó có vẻ không tuân theo những luật lệ chung của những thứ bao quanh nó. Đây là một nơi luôn biến hình nhưng luôn hoang vắng.

Vài ngày sau, anh thử trèo lên mái chợ bằng tay với chân không, không cả dây bảo hiểm, chỉ bám vào những chỗ gồ ghề của đá mà thời gian đã tạo nên. Khi đã lên trên, anh xem xét những vũ công được làm bằng gỗ, bằng sứ và bằng gang, dựng lên trong đầu danh sách các dụng cụ mà anh sẽ cần đến. Anh vui sướng trước công việc này, anh vừa mới trải qua mười hai tháng để xếp những miếng kẽm và lắp những ăngten trên một tổ hợp chung cư mới và vô hồn. Một người thợ nề đã nói với anh về cái chong chóng gió lúc anh đang làm công việc ấy.

- Ê này, Người Da Đỏ, anh ta nói, có một cái chong chóng bị đổ trên mái một ngôi chợ, họ đang tìm người để sửa, anh thử đến xem sao, và ngay trong ngày mai nhé. Và thế là anh lên đường.

Nguồn: truyen8.mobi/t87194-em-con-muon-chung-nao-anh-con-nho-chuong-13.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận