Tài liệu: Goerge Washington (1732 - 1799) tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ

Tài liệu
Goerge Washington (1732 - 1799) tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ

Nội dung

GEORGE WASHINGTON (1732 - 1799)

TỔNG THỐNG ĐẦU TIÊN CỦA HOA KỲ

 

Goerge Washington (Gioóc giơ Oasinh tơn) có lẽ là cái tên được đặt theo tên của một người luật sư là George Eskridge (Gioóc giơ Etsxơkơrítgiơ), người đã trông nom săn sóc mẹ của Washington khi bà mồ côi từ nhỏ.

Washington sinh ngày 22 tháng Hai năm 1732 tại ngôi nhà của gia đình mình ở phía Nam bờ sông Potomac, thuộc Hạt Westmou land, Virgnia. Theo lịch cũ là ngày 11 tháng Hai. Ông được đặt tên Thánh vào ngày 5 - 4 - 1732.

a. Thời thơ ấu, tính cách và con người.

Washington có dáng người to lớn khỏe mạnh, cao 1,88m; nặng khoảng 80kg. Ông có đôi vai rộng, đôi gò má cao, mũi thẳng, to; có cái cằm bạnh và cương nghị; có cặp mắt màu xanh xám ẩn dưới hàng lông mày rậm và mái tóc mầu nâu sẫm. Ngay từ thời thơ ấu, Washington là một người sống trầm lặng, ít bạn bè. Ông rất hiếm thời gian để dành cho sự vui đùa. Ông không phải là một thuyết khách giỏi. Ông thường viết mọi suy nghĩ của mình lên giấy nhiều hơn là suy nghĩ trong tư duy. Washington là người sống ngay thẳng, thật thà và rõ ràng. Mặc dù trong cuộc sống đôi khi ông có tính hám lợi và tham vọng nhiều, song về cơ bản ông vẫn là một con người hoàn hảo. Tiểu sử thời thơ ấu của Washington cho đến nay nước Mỹ cũng không có nhiều tư liệu gì hơn ngoài những dòng ghi vắn tắt về người anh trai là Lawrence, nhiều hơn em 11 tuổi thường thay cha chăm sóc Washington và Washington cũng coi hình tượng của anh trai như cha mình. Thời còn trẻ Washington rất thích đi biển, đi săn và chơi bia. Năm 16 tuổi, Washington dọn tới ngôi nhà của Lawrence. Nơi đây, ông đã rèn luyện kỹ năng vẽ bản đồ thực địa và cũng là nơi ông đón sinh nhật lần thứ 21. Washington đã được thừa kế trang trại Ferry (Pheri), một nửa mảnh đất rộng 4000 mẫu Anh (một mẫu Anh = 0,4 ha) và ba lô đất ở Frerisksburg với 10 người nô lệ và một số tài sản cá nhân.

b. Nguồn gốc gia tộc

Theo lời bà nội của Washington nói thì ông thuộc dòng dõi từ đời Vua Edward III (Ét uốt Đệ III) của Anh quốc (1312 - 1377). Kỵ của ông là đức cha Lawrence Washington (Lorenxơ Oasinhtơn, 1602 - 1653) đã từng là Linh mục cai quản Nhà thờ Các Thánh (All Saints). Cụ của Washington là John Washington (Giôn Oasinhtơn) theo đường biển đến Mỹ năm 1656. Chuyến đi ấy, cụ John Washington dự định chỉ đến Mỹ mua một lô hàng thuốc lá rồi trở về. Song vừa đến bến chưa được bao lâu thì con tàu bị đắm. Vì thế, cụ John Washington đã phải ở lại Virginia (Vơginia). Nơi đây, John đã gặp gỡ và thành hôn với Anne Pope, tức bà nội của Tổng thống Washington.

Cha của Washington là ông Augustine Washington (Ogaxtin Oasinhtơn 1694 - 1743) là một chủ đồn điền. Ông có 10.000 mẫu đất ở vùng Potomac và một xưởng đúc sắt ở Anh. Washington là con người vợ thứ hai của ông là bà Mary Ball (Meri Bôn). Ông tái giá sau khi người vợ cả qua đời. Bà Mary Ball Washington sinh năm 1709 và mất năm 1789. Bà mồ côi cha từ năm lên ba tuổi, mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi. Tình cảm giữa hai mẹ con có sự bất hòa kéo dài mãi cho tới khi bà qua đời vì bệnh ung thư. Bà mất đúng vào năm đầu tiên khi người con trai lên nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ.

Washington có hai người anh trai cùng cha khác mẹ và một người em gái.

c. Học vấn

Tiểu sử không cho biết rõ thời thơ ấu ai là người dạy học trực tiếp cho Washington, nhưng đến năm 11 tuổi thì Washington đã có những kiến thức cơ bản về đọc, viết và kiến thức toán học. Washington học giỏi nhất là môn toán học, ông đã vận dụng toán học để quản lý đất đai trang trại của gia đình ở Virginia. Ngoài ra, Washington còn học tiếng Pháp là một thứ tiếng ngoại giao thời ấy được ưa chuộng.

d. Chuyện tình và hôn nhân thời trẻ

Thời trai trẻ, Washington là người hay thẹn thùng, lúng túng khi gặp bạn gái, thậm chí có khi không thốt được lời nào. Và có lần Washington đã ghi lại nỗi niềm trăn trở bực dọc ấy trong một bài thơ (nhật ký) vào năm 17 tuổi:

“Thật khốn khổ cho tôi,

Khi yêu không nói được,

Những lời nồng nàn kia,

Để trái tim chết lặng,

Bóp nát tâm hồn tôi,

Một nỗi buồn tê tái…”

(Hoàng Điệp - dịch)

Trước khi lấy bà Martha (Mác tha) những chuyện tình duyên ban đầu của Washington đều không lấy gì làm suôn sẻ.

Vào năm 20 tuổi, Washington để ý tới cô Betry Fauntleroy (Bét xi Phôntơlơroi), con một Thẩm phán, đại biểu của Hạt Richmond, khi ấy cô mới 16 tuổi. Song sau những lần Washington đặt vấn đề tìm hiểu thì nàng đã khước từ. Rồi vào năm 1756, khi Washington đến New York, tại đây, ông đã gặp cô Mary Philipse 26 tuổi, con một chủ đất giàu có. Washington đã ở lại thành phố này trong một tuần và đã ngỏ lời với cô Mary Philipse. Mối tình kết cục cũng không đi tới đâu. Về sau cô Mary đã lấy Roger Moris (Rôgiơ Morít).

Mối tình thứ ba là khi Washington gặp cô Sally Fairfax (Xali Phép phắc), một cô dâu 18 tuổi của người bạn và cũng là người hàng xóm của mình George William Fairfax (Gioóc giơ Uy liam Phe phắc). Washington đã say mê cô cuồng nhiệt bởi sự thanh thoát, quyến rũ, sự duyên dáng, tính hài hước, cũng như vẻ đẹp hiếm thấy và trí thông minh của cô gái này. Mặc dù mối quan hệ giữa họ không bao giờ đi quá giới hạn cho phép, song cả hai đều đã có những tình cảm mãnh liệt với nhau và thường xuyên viết thư cho nhau. Trong một bức thư gởi cho cô năm 1758 - khi mà Washington đã đính hôn với Martha, ông đã buột nói lên tình yêu của mình, nhưng theo một cách thật kín đáo vì sợ bức thư rơi vào tay người khác. Ông thú nhận rằng ông đã yêu một người phụ nữ mà cô biết quá rõ, và còn viết tiếp: ''Thưa bà, bà đã khiến tôi hay nói đúng ra chính tôi đã buộc mình phải tự thừa nhận một sự thật đơn giản. Xin bà đừng hiểu sai ý tôi, cũng đừng nghi ngờ hay vứt bỏ nó. Thế giới này chẳng cần biết tại sao tôi đã thổ lộ tình yêu của tôi như thế này cho bà khi mà tôi vẫn muốn giữ kín”. Ông đã từng tan nát trái tim vì mối tình tuyệt vọng này. Song, Washington có lẽ sẽ còn đau khổ hơn nữa nếu cứ chỉ nghĩ tới chuyện buồn đó, bởi vì hai vợ chồng Fairfax không cùng chung khát vọng giành độc lập cho nước Mỹ như bản thân ông. Năm 1773, khi trong Đảng Boston Tea bùng lên sự căm phẫn trước chế độ thuế khóa mà Anh áp đặt, Sally và George Fairfax đã rời Virginia để đến Anh. Họ đã định cư hẳn ở đây và trở thành công dân nước Anh cho tới phút cuối cuộc đời.

Hôn nhân

Năm 26 tuổi Washington đã thành hôn với Martha Dandridge Custis - 27 tuổi, một góa phụ đã có hai con, vào ngày 6 tháng Giêng năm 1759 tại nhà riêng của bà - The White House (tòa Nhà trắng) trên bờ Sông Pamunkey (Pamơnki) về phía Tây Bắc Williamsburg (Uyliamxơbớc). Martha sinh ngày 21 tháng 6 năm 1731 tại Hạt New Kent (Niu Ken), Virginia. Bà là con gái của John Dandridge (Grôn Đanđơrítgiơ) - một chủ đồn điền và Francis Jones Dandridge (Pharanxix Giônxơ Đanđơrítgiơ). Bà là một người phụ nữ khá nhỏ nhắn và ưa nhìn, một con người thực tế và thông minh nếu như không nói là vô cùng tài trí. Năm 18 tuổi, bà lấy Daniel Jones Custis (Đanien Giônxơ Kiutix) - một chủ đồn điền tiếng tăm có hơn 17.000 mẫu đất. Trong lần hôn nhân đầu này, bà sinh được bốn người con nhưng chỉ có hai trong số đó sống được cho tới lúc trưởng thành. Năm 1757, chồng bà qua đời, không để lại một chúc thư nào, và Martha trở thành người góa phụ nổi tiếng là giàu có nhất ở Virginia. Có lẽ Washington đã quen biết hai vợ chồng Martha vào một thời gian trước đó. Tháng 3 năm 1758, ông đã hai lần tới thăm bà tại White House (Oaitơ Haoxơ) và chính trong lần thứ hai này ông đã nhận được lời đồng ý đính hôn của bà hay ít ra cũng đã được bà hứa sẽ suy nghĩ về đề nghị của ông. Đám cưới của họ là một sự kiện lớn. Chú rể mặc bộ đồ màu xanh da trời, lấp lánh ánh bạc. Sau khi đức cha Peter Mosum (Pitơ Mốtxăm) tuyên bố họ thành vợ, thành chồng; họ hưởng tuần trăng mật ở White House liền trong mấy tuần trước khi dọn tới sống ở ngôi nhà Mount Vernon của Washington. Ngày nay, cuộc hôn nhân của họ là một cuộc hôn nhân bền chắc, không bị sự phản bội hay sự cãi cọ nào làm khuấy động. Trong suốt thời kỳ Cách mạng Mỹ, bà Martha đã chịu đựng nhiều gian khổ, khi tới thăm chồng tại sở chỉ huy nơi chiến trận. Lúc trở thành Đệ nhất Phu nhân Tổng thống, bà cũng đã quán xuyến nhiều công việc Nhà nước ở New York và Philađenphia. Năm 1800, Thủ đô Mỹ được dời về Washington, trong thời kỳ Adams làm Tổng thống. Sau cái chết của Washington năm 1799, bà trở nên buồn bã và qua đời ngày 22 tháng 5 năm 1802 (thọ 71 tuổi).

Nghề nghiệp trước khi làm tổng thống

Năm 1749, Washington nhận sứ mệnh đầu tiên làm người vẽ bản đồ địa hình ở Hạt Culpeper (Kanpéppo) thuộc Virginia. Sau đó, vào năm 1752, ông tham gia lực lượng quân sự vùng Virginia với chức vụ đầu tiên trong quân đội với hàm Thiếu tá. Tới tháng Ba năm 1754, Washington được thăng lên chức Trung tá và được giao trách nhiệm trông coi việc xây dựng Pháo đài Necessity (Nétxétxiti) - nơi mà ngày nay gọi là địa hạt vùng Fayette thuộc Bang Pennsylvania. Nhưng sau đó, pháo đài bị thất thủ, rơi vào tay quân Pháp, Washington đã từ chức. Song đến năm 1775, ông lại trở về phục vụ quân đội giữ chức phụ tá cho Tướng Edward Braddock (Ét uốt Brátđốc). Trong một trận giao chiến ác liệt vào tháng 7 năm 1755, Barddock bị tử thương, Washington liền tập hợp số binh sĩ còn lại rồi rút lui có trật tự. Tháng sau đó, ông được thăng chức Đại tá và là trung đoàn trưởng. Tháng 12 năm 1758, ông rút khỏi lực lượng dân quân Virginia sau khi trúng cử vào Viện dân biểu Virginia.

Tháng 7 năm 1758, Đại tá Washington trở thành một trong số hai đại biểu của Hạt Frederick (Phređơrích) tại Viện đại biểu thị xã. Ông cùng nhiều người khác đã chống đối chính sách thuộc địa của Anh. Năm 1769, ông trở thành người lãnh đạo Hiệp hội (The Association) - một tổ chức được thành lập lại trong một cuộc hội nghị không chính thức của Viện đại biểu thị xã. Sau khi Hiệp hội này đã bị Thống sứ người Hoàng gia Anh giải tán. Hiệp hội này có nhiệm vụ xem xét tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để tẩy chay hàng Anh nhập vào Mỹ. Năm 1774 - 1775 ông là thành viên của phái đoàn đại biểu Virginia tới tham dự Hội nghị Continental lần I và II (Hội nghị họp bàn cách chống lại thực dân Anh, giành độc lập cho nước Mỹ). Ông cũng là thành viên của nhiều ủy ban hậu cần khác nhau và là Chủ tịch ủy ban dự trữ vũ khí, đạn dược chuẩn bị cho cuộc Cách mạng sắp xảy ra. Ông đã từng bỏ phiếu tán thành giải pháp giải quyết bất đồng với Anh bằng con đường hòa bình, nhưng rồi ông đã nhận ra rằng cách này không đem lại kết quả. John Adams (Giôn Ađamx) - người Massachusetts (Maxachuxét) trong bài phát biểu đã hết lời ca ngợi Washington khiến Washington cũng phải đâm ra bối rối và đồng thời ông ta cũng khẩn thiết yêu cầu cử Washington làm Tổng tư lệnh quân đội Continental vừa mới được thành lập. Tháng 6 năm 1775, toàn thể đại biểu tại Hội nghị đã nhất trí chọn Washington bầu làm Tổng tư lệnh. Với lý do vì kinh nghiệm quân sự của Washington phong phú và thiết thực, hơn là vì họ muốn đặt một cuộc đấu tranh từ trước tới đó vẫn chủ yếu do các nhà cách mạng miền Bắc lãnh đạo; nay sẽ do một người Virginia nổi tiếng tàm Tổng tư lệnh quân đội Conlinental trong thời kỳ Chiến tranh Cách mạng, 1775 - 1783.

Với một đội quân còn chưa được huấn luyện chu đáo chưa vào khuôn phép, chủ yếu được lập nên từ các lực lượng dân quân; Tướng Washington đã lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại cả một đội quân tinh nhuệ của Anh cộng với các lính đánh thuê đã được trang bị đầy đủ. Tháng 3 năm 1776, ông đã làm nức lòng người dân "New England" (Niu Inglơn) với việc đẩy lui quân Anh ra khỏi Boston. Nhưng việc để mất Thành phố New York (New York City) cộng thêm nhiều khó khăn trở ngại khác vào cuối năm đó đã làm mất đi hy vọng giành thắng lợi nhanh chóng. Song, những chiến thắng dồn dập của quân đội đã phần nào khích lệ tinh thần đang suy sụp của người Mỹ như được vực dậy khi Washington cùng quân đội của ông vượt sông Delaware (Đelơ oe) mở các đợt phản công để tới New Jersey (Niu Giơdi); đánh bại kẻ địch mạnh hơn mình tại các nơi: Trenton (Tờrentơn) vào tháng 12 năm 1776 và tại Princeton (Prinxơtơn) vào tháng Giêng năm 1777.

Quân đội Mỹ dưới sự lãnh đạo và chỉ huy tài ba của Đại tướng Washington đã chiến đấu ngoan cường và chiến thắng quân Anh. Trong bức thông điệp gửi tới Hội nghị để báo tin chiến thắng, Washington đã viết đầy tự hào rằng: ''Thưa các vị, tôi vinh dự được báo tin với toàn thể Hội nghị rằng cuộc chiến đấu chống quân Anh - một đội quân do tướng Comwallis chỉ huy đã thắng lợi tốt đẹp. Bầu nhiệt huyết luôn dâng trào và động viên từng người lính, từng sĩ quan trong quân đội liên minh của chúng ta. Nó chắc chắn là nhân tố chủ yếu để sự kiện trọng đại này đến với chúng ta sớm hơn so với sự trông đợi từng đặt nhiều hy vọng nhất của tôi”. Tháng 11 năm 1783, hai tháng sau khi Hiệp định hòa bình chính thức được ký kết, Washington đã từ chức và trở về ngôi nhà bị lãng quên từ lâu ở Mount Vernon.

Sau đấy, vào năm 1787 Washington, một đại biểu của Virginia đã trở thành Chủ tịch Hội nghị lập hiến với số phiếu bầu tuyệt đối. Ông là một trong số những người ủng hộ việc thành lập một Chính phủ Liên bang vững mạnh. Sau Hội nghị, ông đã thúc đẩy việc thông qua Hiến pháp ở Virginia. Theo những ghi chép để lại của Abraham Baldwin (Abờraham Bônuyn), một đại biểu của George (Gioóc giơ) – những ghi chép chỉ mới được phát hiện gần đây và đưa ra công khai năm 1987 thì vào thời điểm đó, Washington đã nói riêng với ông rằng: Washington không trông đợi Hiến pháp này kéo dài được quá 20 năm.

Năm 1789 Washington đắc cử Tổng thống, nhiệm kỳ thứ nhất

Washington, một người chủ trương thành lập chế độ Liên bang (Federalist) hiển nhiên sẽ được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Là một người lãnh đạo mà tiếng tăm cũng như sự yêu mến của dân chúng dành cho ông còn vượt cao hơn mọi xung khắc giữa những người chủ trương thành lập chính quyền Liên bang và những người chống chủ trương này. Ông là người có công lớn trong việc đem lại nền độc lập cho nước Mỹ và là một điền chủ khiêm nhường không thích ai tán dương ca tụng mình. Washington cũng là người đã hoàn toàn chi phối được chính trường tới mức mà không một ai trong số 69 cử tri đi bầu lại bỏ phiếu chống lại ông. Như vậy, ông đã giành được sự nhất trí của 10 bang: Contecticut (Kơnếchtikớt), Delware (ĐeLơoe), Georgia (Grơócgiơ), Maryland (Merilơn), Massachusetts (Maxachuxét), New Hampshire (Niu Hemsơ), New Jersey (NiuGiơdi), Pennsylvania (Penxinvâynia), Nam Carolainơ (Carôlainơ), Virginia (Vơgmia). (Các bang Bắc Carolina và Rhode Island (Rốt Ailân) vẫn chưa thông qua Hiến pháp. Bang New York (Niu Oóc) đã không quyết định kịp việc gửi cử tri đi bầu). Washington là vị Tổng thống duy nhất giành được 100% phiếu bầu. John Adams - Bang Massachusetts có số phiếu bầu cao thứ hai: 34 phiếu trở thành Phó Tổng thống. Sau đó, năm 1792, Washington lại trúng Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai, mặc dù lúc này các đảng viên Đảng Dân chủ - Cộng hòa ngày càng mạnh lên. Song Washington vẫn tiếp tục được ủng hộ tuyệt đối. Một lần nữa, ông lại giành được số phiếu bầu của tất cả mọi cử tri: 132 phiếu, và như vậy, ông đã giành được sự nhất trí ủng hộ của cả thảy là 15 bang: Coonneticut, Delaware, Georgia, Kentuckey (Kentắcky), Maryland, Masachusetts, New Hampshire, New York, New Jersey, Bắc Carolina, Pennsylvania, Rhode Island, Nam Carolina, Vermont (Vơmont) và Virginia; John Adams – Bang Massachusetts đạt số phiếu bầu cao thứ hai: 77 phiếu và do đó, một lần nữa lại trở thành Phó Tổng thống.

Diễn văn nhậm chức (lần thứ nhất)

New York City ngày 30-4-1789. “...Khi tôi lần đầu tiên được vinh dự phục vụ cho Tổ quốc mình, vào cái đêm trước khi bắt đầu cuộc chiến tranh gian khổ để giành tự do cho đất nước này, nguồn sáng sẽ soi rọi cho tôi trong từng nhiệm vụ tôi sắp sửa đảm nhận đã mách bảo tôi rằng tôi sẽ không được phép đòi hỏi bất cứ sự đền bù tài chính nào. Tôi đã không hề buông lỏng quyết tâm ấy dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Giờ đây, vẫn với những gì tôi đã từng suy nghĩ ngày ấy để đi tới quyết tâm đó, tôi cần phải khước từ ít nhất là với bản thân tôi, bất kỳ một khoản tiền lương cá nhân nào - những khoản tiền không thể bỏ qua khi nói tới vấn đề chi tiêu thường xuyên cho văn phòng Tổng thống. Đồng thời tôi cũng mong muốn rằng việc tính toán các khoản chi tiêu đối với cương vị mà tôi đang đảm nhận lúc này đây, trong suốt thời gian tôi đương nhiệm sẽ chỉ giới hạn các khoản chi tiêu sao cho phù hợp với lợi ích của công chúng... ''

Diễn văn nhậm chức (lần thứ hai)

Philadelphia ngày 4-3-1793 (đây là bài diễn văn nhậm chức ngắn nhất, chỉ có 135 từ). “Thưa toàn thể đồng bào, tôi một lần nữa lại được đất nước mình chọn làm người đứng ra gánh vác những nhiệm vụ của một vị Tổng thống. Tôi mang những hy vọng rằng mình có thể diễn đạt được ý nghĩa cao cả của sự vinh dự đặc biệt này mà tôi đang được đứng đây với lòng tin mà toàn thể nhân dân nước Mỹ thống nhất đã đặt ở nơi tôi Theo như Hiến Pháp qui định, tôi sẽ phải tuyên thệ nhậm chức trước khi chịu sự chi phối của bất cứ điều luật chính thức nào áp dụng đối với Tổng thống. Lời tuyên thệ mà tôi sắp nói ra đây trước sự có mặt của tất cả các bạn, đó là: trong thời gian tôi đương nhiệm, nếu bất kỳ lúc nào các bạn phát hiện thấy tôi có hành động cố ý vi phạm những điều luật nói trên thì tôi không những phải chịu các hình phạt theo qui định của Hiến Pháp mà còn phải chịu mọi sự quở trách của tất cả những ai đang chứng kiến buổi lễ long trọng ngày hôm nay”.

e. Nước Mỹ dưới ''triều đại'' Washington làm Tổng thống

Washington làm Tổng thống nước Mỹ hai nhiệm kỳ từ ngày 30-4-1789 đến 3-3-1797. Trong suốt thời gian này, ông đề ra nhiều chính sách, chủ trương và đã ghi vào lịch sử nước Mỹ những trang huy hoàng hiển hách nhất.

Tổng thống Washington đã đặt các tiền lệ và ông rút ra rằng: Nhiều vấn đề thoạt đầu tưởng không mấy phần quan trọng, song nếu được xác định rõ ngay từ khi mới thành lập chính quyền thì có thể tạo nên những tác động to lớn và lâu dài". Tâm niệm như vậy, ông đã luôn điều hành công việc một cách thật thận trọng, có dựa trên cơ sở thực tiễn. Chỉ khi thấy cần thiết, ông mới bổ sung thêm vào đường hướng hoạt động cơ bản của Chính phủ (một đường hướng đã được vạch ra một cách hợp lý trong bản Hiến pháp):

(1). Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các Bộ trưởng, giống như việc ông đã từng thành lập Hội đồng Chiến tranh để tham mưu cho ông trong thời kỳ Cách mạng Mỹ, ông đã nêu gương cho các Tổng thống sau này trong việc thường xuyên tham khảo Nội các.

(2) Trước đây, Quốc hội thường không thẩm tra lại việc bổ nhiệm của Washington (chủ yếu vì tôn trọng cá nhân ông, chứ không phải nguyên tắc quy định như vậy), kể từ đó hình thành lên một tập quán chung là Tổng thống có quyền chọn Nội các. Quốc hội thường chỉ xác nhận lại việc bổ nhiệm nội các của Tống thống mà thôi, thậm chí điều đó vẫn được áp dụng ngay cả khi đảng đối lập chiếm đa số ghế trong Quốc hội.

(3) Một Tổng thống nên giữ chức trong bao nhiêu nhiệm kỳ? Hiến pháp lúc bấy giờ chưa quy định vấn đề này. Washington lẽ ra đã đưa ra tiền lệ một nhiệm kỳ, vì ngay từ khi mới nhậm chức, ông đã quyết định mình sẽ thôi chức vào năm 1793. Song ông đã tiếp tục thêm nhiệm kỳ thứ hai bởi vì lúc đó Chính phủ phi đảng phái mà ông đã từng cố công xây dựng đang có nguy cơ tan rã. Vì thế, ông đặt ra chế độ hai nhiệm kỳ, chế độ này đã được áp dụng cho tới năm 1940.

(4) Khi John Jay (Giôn Giây) từ chức Chánh án Tòa an Tối cao Liên bang,  Washington lẽ ra có thể chọn một người trong ban Chánh án lên thay thế, song ông đã chọn một người khác không thuộc số đó, đúng như lòng mong muốn của nhiều người. Ông không lấy thâm niên nghề nghiệp làm tiêu chuẩn để lựa chọn người lãnh đạo Tòa án Tối cao Liên bang. Thay vào đó, ông đã nêu lên một tiền lệ mới mà theo tiền lệ này các Tổng thống kế nhiệm ông có thể chọn trong số nhiều người trẻ tuổi, có tài năng để bổ nhiệm vào chức vụ Chánh án Tòa án Tối cao Liên bang thay cho việc chỉ chọn trong số ít những Chánh án đương chức có tuổi.

Dưới thời Tổng thống Washington đã xảy ra Sự kiện người da đỏ: năm 1791, Tổng thống Washington đã giao cho tướng Arthur St Clair (Athơ Xưn Cle) chỉ huy một đạo quân đi chinh phục những người da đỏ đang chống lại sự định cư của người da trắng ở vùng lãnh thổ Tây Bắc. Nhưng sau đó St.Clair đã thất bại. Thủ lĩnh người Miami (Miami) Little Turtle: (Rùa Nhỏ) đã đánh cho quân St.Clair thua chạy tan tác trên sông Wabash (Oabasơ). Khi đó, Washington bèn chuyển sang giao cho một cựu chiến binh của cuộc Chiến tranh Cách mạng là “Mad” Anthony Wayne (Antony Oaynơ “Cuồng nhiệt”). Trước khi dẫn quân đi chinh phục, Wayne đã dành hàng tháng trời để huấn luyện cho đội quân chính quy tham gia vào cuộc chiến tranh với những người da đỏ. Ông ta đã dũng cảm đưa quân vào khu vực này, tổ chức xây dựng hàng loạt pháo đài. Và ngày 20 tháng 8 năm 1794, Anthony Wayne đã chiến thắng quân da đỏ, khi ấy đang do thủ lĩnh Little Turtle cầm đầu tại Fallen Timbers (Phônlơn Timbơx) gần Toledo (Toliđô) thuộc Ohio ngày nay. Theo các điều khoản đã ký kết trong Hiệp ước Greenville (Grinvinlơ - 1795), các bộ tộc da đỏ thua trận buộc phải nhường lại vùng lãnh thổ tranh chấp phía Tây Bắc cho Chính phủ Hoa Kỳ và phải trở về phía Tây. Thông qua con đường ngoại giao, Tổng thống Washington đã cố gắng dàn hòa với bộ tộc Creek (Krich) và các bộ tộc da đỏ khác ở miền Nam, đương nhiên kết quả đạt được còn hạn chế. Năm 1792, ông đã tổ chức tiếp đón các tộc trưởng thuộc Liên minh "Sáu bộ tộc da đỏ'' miền Nam, trong đó có cả thủ lĩnh người Seneca (Xênikơ) là Red Jacket (Áo choàng đỏ) - người đã được Washington tặng thưởng huy chương bạc và đã trân trọng gìn giữ vật kỷ niệm đó suốt cuộc đời mình. Red Jacket là người trước đây từng lãnh đạo bộ tộc da đỏ của mình chống lại quân đội của Washington thời kỳ Chiến tranh Cách mạng nhưng sau này đã chung sức cùng nhân dân Mỹ chiến đấu trong cuộc chiến tranh năm 1812.

Tuyên bố thái độ trung lập năm 1793, trong cuộc chiến tranh giữa một bên là Pháp và bên kia là các nước Anh, Áo, Thổ, Sardinia và Hà Lan, Tổng thống Washington đã tuyên bố Hoa Kỳ “Giữ quan hệ hòa hảo và vô tư với các bên tham chiến”. Mặc dù ông đã tránh dùng từ “trung lập”, song ý định của ông thì đã khá rõ ràng. Những người không ưa thích ông thì chỉ trích lên án rằng tuyên bố trên của ông là hành động phá bỏ lời cam kết mà Mỹ đã hứa với đồng minh đầu tiên của mình là Pháp. Tuy vậy, với tuyên bố này, Mỹ đã tránh khỏi một cuộc chiến tranh mà thực tế vào thời điểm ấy Mỹ vẫn chưa hề có sự chuẩn bị kỹ càng để nhập cuộc. Công sứ Pháp tại Mỹ là ông Edmon Gen, tảng lờ chủ chương trên của Mỹ, nhưng đã tìm cách kích động tình cảm thân Pháp trong số những người Mỹ mà ông đã sắp đặt, bố trí để các tàu săn lùng của Mỹ quấy rối các tàu chiến của Anh. Do quá khích, những hành động trên đã khiến Tổng thống Washington buộc phải trục xuất Edmon Gen về nước.

Cuộc nổi loạn Whiskey (úytxki), năm 1794, nhằm góp phần thanh toán các khoản nợ Quốc gia và xây dựng một nền tảng kinh tế vững mạnh cho đất nước, Tổng thống Washington đã chấp thuận áp dụng thuế đánh vào rượu. Thời kỳ này, những người nông dân ở Bang Pennsylvania vẫn thường dùng ngô thu hoạch được để đem chế biến thành rượu. Làm như vậy, họ nhằm tránh không phải tốn một khoản chi phí rất lớn khi vận chuyển đường dài ngũ cốc ra thị trường để bán. Những người tá điền này đã phản đối không chịu trả thuế. Theo lời khuyên của Hamilton, Washington đã hạ lệnh đưa 15.000 dân binh tới vùng này, và đích thân ông đã đi duyệt đội quân ngay tại thao trường. Hành động cương quyết và mạnh mẽ đó đã giúp chính quyền Liên bang vượt qua được thử thách thật sự đầu tiên đó.

Hiệp ước Jay, 1795: những người ủng hộ Jefferson đã phê phán kịch liệt và thẳng thừng chỉ trích Washington về việc ký kết Hiệp định với Anh. Nhằm chặn trước những cuộc xung đột có thể xảy ra với nước mẹ (Anh Quốc) và buộc Anh phải rút quân đội của mình ra khỏi các tiền đồn trên lãnh thổ Tây Bắc Mỹ như Anh đã từng cam kết trong Hiệp ước Pari về việc chấm dứt cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ. Washington đã đồng ý để quân Anh được kiểm soát trên các vùng biển của Mỹ cùng với quân đội Mỹ. Bất kỳ tàu Mỹ nào bị nghi chở hàng lậu tới vùng bờ biển Mỹ mà quân Anh vẫn đang đóng đều có thể bị hải quân Anh kiểm tra và tịch thu. Song trên thực tế, gần như bất kể thứ sản phẩm hữu ích gì kể cả lương thực thực phẩm cũng đều bị Anh xem là hàng lậu. Hơn nữa, Hiệp ước Jay đã không giải quyết được những bất đồng cơ bản đang cản trở quá trình nối lại quan hệ với Anh, đó là vấn đề cưỡng bức đi lính. Anh đặt ra chính sách: ''Đã là người Anh thì mãi mãi vẫn là người Anh”. Chính sách đó có nghĩa là một kiều dân Anh cho dù đã từ bỏ bổn phận của mình với Hoàng gia Anh, và đã trở thành công dân Mỹ, mang quốc tịch Mỹ một cách chính thức thì người đó vẫn không thoát khỏi sự cai quản của Vua Anh. Nếu trong khi khám xét tàu Mỹ để tìm xem có chở hàng lậu hay không, hải quân Anh phát hiện thấy trong đám thủy thủ có người từng là người Anh thì họ sẽ lôi người đó ra, cưỡng bức anh ta phải sung vào Hải Quân Hoàng gia. Song bất chấp tất cả những điều trên và bất chấp cả việc quan hệ với Pháp ngày một căng thẳng hơn do Hiệp ước Jay gây nên, Hiệp ước này cuối cùng vẫn không thể ngăn chặn được cuộc xung đột tất yếu với Anh. Mãi tới năm 1812, khi Mỹ đã chuẩn bị được tốt hơn về quân sự thì mối xung đột này mới được giải quyết chấm dứt hẳn. Sau khi Thượng nghị viện Mỹ đã thông qua Hiệp ước Jay, Hạ nghị viện lại yêu cầu Tổng thống cho xem tất cả mọi giấy tờ có liên quan trực tiếp tới quá trình đàm phán đi tới Hiệp ước này. Washington đã dựa theo quy định trong Hiến pháp để từ chối yêu cầu trên. Ông cho rằng, chỉ có Thượng nghị viện là cấp cao hơn mới có quyền thông qua các Hiệp ước. Từ đó, ông đã đặt ra một tiền lệ mà theo đấy, các Tổng thống tương lai của nước Mỹ đều có quyền phản đối những yêu cầu như trên của Quốc hội.

Hiệp ước Pinckney (Pinhkơni), 1795: theo Hiệp ước này, Washington tiến hành quá trình bình thường hóa quan hệ với Tây Ban Nha thông qua việc thiết lập đường ranh giới phân cách Hoa Kỳ và Florida (Phloriđa) của Tây Ban Nha ở vĩ tuyến 31. Tuy nhiên, Hiệp ước đó có ý nghĩa quan trọng hơn cả đối với tương lai của nền thương mại của Mỹ, vì theo Hiệp ước, các tàu của Mỹ được phép tự do cập bến ở bất kỳ cảng nào trên suốt dọc chiều dài sông Mississippi (Mixixipi), được tự do vào Cảng New Orleans (Niu óclân) nhằm thực hiện việc xuất khẩu.

Washington còn thực hiện thêm nhiều hoạt động quan trọng khác, trong đó có việc ban hành ký thành luật một số bản dự luật làm cơ sở, hoặc đã đặt nền móng làm hình thành nên văn bản:

* 1789: tuyên thệ sẽ trung thành với đất nước của các quan chức Nhà nước Liên bang và tiểu bang.

Một hệ thống biểu thuế quan đầu tiên nhằm bảo hộ các thà sản xuất trong nước như: Bộ Ngoại giao, Chiến tranh và Tài chính. Chức Bộ trưởng Bưu điện đã có từ đó Tòa án Tối cao Liên bang, các tòa án lưu động và các tòa án cấp Liên bang ở các vùng và các chức Chưởng lý (Theo Đạo luật Tòa án) đã lần lượt ra đời. Tất nhiên Washington là người đã chỉ định tất cả các quan tòa đầu tiên của Mỹ vào các tòa án trên.

1790: có cuộc điều tra dân số đầu tiên của Liên bang. Và lần lượt ban hành các văn bản luật: Bảo hộ quyền phát minh sáng chế, quyền tác giả.

Quyết định dời Thủ đô Mỹ về Philadelphia tháng 12 năm 1790, và về Wasshington 10 năm sau đó.

1791: thành lập Ngân hàng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

1792: ban hành quyền kế nhiệm Tổng thống; lúc bấy giờ cho phép sau Phó Tổng thống thì đến Chủ tịch Thượng nghị viện và tiếp đó là chủ tịch Hạ nghị viện (theo thứ tự này) được quyền kế nhiệm chức Tổng thống. Và cũng vào năm này nước Mỹ thành lập Sở đúc tiền Philadelphia.

1795: ban hành Luật quốc tịch, lúc bấy giờ ở Mỹ cho phép kéo dài thời gian định cư từ 2 lên 5 năm.

g. Diễn văn mãn nhiệm, về hưu và qua đời - sự đánh giá của người đời

Năm 1796, chuẩn bị về nghỉ hưu, Washington đã làm một bản diễn văn mãn nhiệm rất nổi tiếng, tuy nhiên, ông không đọc bản diễn văn này trước công chúng mà chỉ cho đăng trên báo. Bản diễn văn được đăng trên tờ Amercan Daily Advertiser (Nhật báo quảng cáo Mỹ). Trong bản diễn văn này ông đã cảnh báo trước những hiểm họa mà đa đảng chính trị và các lực lượng liên minh phá rối của nước ngoài có thể gây ra. Trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên của mình, ông đã luôn cố gắng ngăn chặn sự gia tăng của xu hướng phân chia đảng phái, song xu hướng này chỉ thật sự được chặn đứng hoàn toàn khi ông tiếp tục thêm một nhiệm kỳ nữa. Nhưng không lâu sau khi ông tuyên bố thôi chức Tổng thống, cuộc chiến tranh đảng phái đã bùng nổ giữa một bên là những người chủ trương thành lập chính quyền Liên bang (Federalists), đứng đầu là Hamilton và Adams với một bên là những người Cộng hòa - Dân chủ, đứng đầu là Jefferson. Nhưng điều đáng chú ý hơn cả trong bài diễn văn này, Washington đã cảnh cáo trước rằng, Mỹ nên tiếp tục đứng ngoài các cuộc chiến tranh ở Châu Âu. Ông khuyên: ''Khi mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác, nguyên tắc lớn chi phối mọi hoạt động của chúng ta là có càng ít quan hệ chính trị với các nước này bao nhiêu càng tốt. Từ trước tới nay, chúng ta đã từng có nhiều lời hứa hẹn, vậy hãy để những lời hứa ấy được giữ đúng bằng một niềm tin trọn vẹn. Chúng ta hãy nên ngừng lại ở đây''. Và trong suốt 100 năm tiếp đó, chủ nghĩa biệt lập vẫn luôn là một nét cơ bản, chủ yếu trong đường lối ngoại giao của nước Mỹ.

Các bang sáp nhập vào Liên bang: Vermont (1791), Kentucky (1792), Tenessee (1796).

Các điều luật sửa đổi đã được thông qua: dự luật về các loại quyền (1791 10 điều luật được sửa đổi và thông qua):

1. Quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do kiến nghị để giải đáp mọi thắc mắc.

2. Quyền được sở hữu vũ khí

3. Hạn chế việc lùng sục lính ở các nhà riêng.

4. Quyền không được khám xét tịch thu vô cớ.

5. Cấm tự gây hại, tự đổ tội cho bản thân; quyền được hưởng sự bảo lãnh theo quy định trong luật

6. Quyền được xét sử công khai và nhanh chóng.

7. Bồi thẩm đoàn có quyền tham gia xét xử.

8. Cấm đặt ra các mức tiền phạt hoặc tiền bảo lãnh bất hợp lý. Cấm sử dụng các hình phạt tàn bạo và bất bình thường.

9. Các quyền hiển nhiên mà Hiến pháp không quy định cụ thể.

10. Các tiểu bang có đầy đủ những quyền hạn không phải là quyền hạn của Chính phủ Liên bang hoặc không bị Hiến pháp phủ nhận. Điều sửa đổi thứ 11 (1795): Công dân của tiểu bang này không có quyền kiện tiểu bang khác.

Ngày 4-3-1797, Washington về nghỉ hưu và ngày 14-12-1 799, ông qua đời tại Mount Vernon, Bang Virginia.

Washington được xếp thứ hai trong số 31 Tổng thống, thứ hai trong số 5 Tổng thống ''vĩ đại". Ông được xếp trên Franklin Roosevelt (Phrankkơlin Rudơven) và sau Lincoln (Linhcôn).

Washington đã được người đời ca ngợi và đánh giá: ''Một con người có tài thao lược và kinh nghiệm chiến đấu, có nhân cách hoàn hảo, nhất định sẽ thống nhất được lòng dân Mỹ và tập hợp được sức lực của toàn thể các thuộc địa (các thuộc địa sau này sát nhập thành nước Mỹ) tốt hơn bất kỳ một ai khác trong liên minh này" - John Adams, kêu gọi đề cử Washington làm Tổng tư lệnh quân đội Continental, 1775.

''Ở bên này đại dương (tức Châu Âu), Ngài cũng được ngưỡng mộ như Ngài từng có, trong sáng và không bị che khuất bởi những bóng đen của những kẻ ganh ghét đố kỵ. Ngài, từng cố công gây ra nhằm phủ nhận công lao của Ngài. Ở đây, Ngài sẽ được biết, được nghe những gì thế hệ sau sẽ nói về Ngài. Bởi một nghìn hải lý hay một nghìn năm sau đây có khác gì nhau. Tiếng nói yếu ớt của thứ tình cảm quy lụy sẽ không thể vượt được khoảng cách không gian, thời gian xa như vậy. Lúc này đây tôi đang vui lây cho Ngài bởi tôi thường xuyên được nghe thấy những lão tướng của đất nước binh đao này (Pháp). (những người nghiên cứu kỹ bản đồ nước Mỹ và đánh dấu lên đó mọi hoạt động của Ngài) nói về Ngài với lòng thán phục, ngợi ca phẩm hạnh của Ngài và coi Ngài là một trong những nhà chỉ huy vĩ đại nhất của mọi thời đại chúng ta" - Benjamin Franklin, 1780.

“Ông đã góp công sức nhiều hơn bất kỳ ai khác và ở mức tối đa mà một con người có thể làm được để tạo nên đất nước bao la hùng mạnh này để đem lại cho Thế giới Tây bán cầu này độc lập, tự do" – John Marshall.

“Mãi mãi xin ghi nhớ ơn Người - con người vĩ đại nhất trong thời chiến cũng như thời bình, con người ngự trị trong trái tim của toàn thể nhân dân Mỹ" - Henry "Light-Horse-Harry'' Lee, 1799.

Những câu nói nổi tiếng của Washington:

Washington qua đời đã gần 200 năm, nhưng những câu nói nổi tiếng của ông còn dư âm mãi trong lịch sử thế giới và nhân loại.

* "Làm quen với người khác thì dễ nhưng dứt ra khỏi người ấy thì rất khó, dù cho ngay sau khi đã quen nhau rồi bạn có thấy người đó mới tẻ nhạt và vô bổ làm sao… Hãy lịch sự nhã nhặn với tất cả mọi người, nhưng chỉ kết thân với ít thôi. Hãy để số ít ấy phải được trải qua thử thách kỹ càng trước khi bạn thật sự đặt lòng tin nơi họ, tình bạn thân nó giống như cái cây, chỉ chầm chậm lớn dần lên”.

“Gươm đao là giải pháp cuối cùng để bảo vệ sự tự do của chúng ta, vì thế nó phải là vật đầu tiên cần dỡ bỏ khi sự tự do ấy đã được thiết lập vững vàng" (1776).

* “Tiền tệ là những thứ nguy hiểm, hãy để một bàn tay rắn rỏi cầm cương chính quyền và làm cho chính quyền vững mạnh. Mọi hành động vi phạm Hiến pháp phải được xử lý nghiêm minh. Nếu Hiến pháp có sai sót phải sửa đổi bổ sung, song tuyệt đối không để Hiến pháp bị chà đạp khi nó vẫn còn đang tồn tại'' (1786).

''Các đảng phái chính trị (tức đa đảng) làm hình thành các bè phái, tạo cho mỗi bè phái một lực lượng nhân lực đặc biệt riêng, mang tư tưởng, nguyện vọng, ý chí của đảng mình thay vì tư tưởng, nguyện vọng, ý chí của toàn thể dân tộc. Mỗi đảng thường là một thiểu số người trong cộng đồng xã hội nhưng rất khôn khéo và dám làm mọi việc, những thắng lợi luân phiên nhau giữa các đảng khác nhau đã biến chính quyền chẳng khác gì tấm gương phản chiếu những chương trình rời rạc, không ăn ý với nhau giữa các đảng phái, chứ không phải là một cơ quan Nhà nước có chính sách tổng thể, liên tục do những nhà chuyên trách đã soạn thảo, sắp xếp có hệ thống và được điều chỉnh dựa trên lợi ích chung của xã hội. Dù cho đôi khi kiểu chính quyền nay đảng này nắm, mai đảng kia nắm cũng có thể đáp ứng được những mục tiêu chung của xã hội, song về lâu dài thì nó nhất định sẽ trở thành thứ phương tiện hiệu nghiệm mà nhờ đó những kẻ xảo quyệt đầy tham vọng và bất lương sẽ có thể phá bỏ nguyên tắc quyền lực là của nhân dân, thâu tóm cho bản thân mình quyền cầm trịch (độc quyền chuyên chế) Chính phủ, sau đó là phá hủy chính những phương tiện đã đưa chúng lên địa vị thống trị bất công đó" (1796 - Diễn văn mãn nhiệm).

NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP

 

Các tác phẩm về Washington:

Cunlife, Marcus: George Washington: một con người bình thường mà vĩ đại Boston: Little, Brown, 1958. James T.IFlexner: George Washmgton: Tiểu sử 4 tập. Boston: Little, Brown, 1965-1972.

Freeman, Douglas Southall: George Washington: Tiểu sử 7 tập. New York: Scribner's sons, 1948 - 1957; Richard Harwell rút ngắn thành một tập. New York: Scribner's sons, 1968.

Wright, Esmond: Washington và cuộc Cách mạng Mỹ London: English Universities Press, 1957.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1062-02-633390270184087500/Nhung-hoang-de-nguyen-thu-quoc-gia-chinh-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận