Tài liệu: Mộ nữ hoàng Meryetamun

Tài liệu
Mộ nữ hoàng Meryetamun

Nội dung

1929

Mộ nữ hoàng Meryetamun

1930 Một hũ vàng từ el-Amarna

1929 – 30 Mersuankh và các tượng của ông

Khám phá / khai quật 1929 bởi Herbert E. Winlock

Địa điểm Thebes (Deir el-Bahri mộ DB 358)

Thời kỳ Vương quốc Mới, Triều đại thứ 18 và sau rày, khoảng 1550-945 TCN

“Vào giữa tháng 01 [1929] chúng tôi kết thúc việc tìm kiếm những mảnh vỡ [tượng nữ hoàng Hatshepsut] ở khu khai thác đá [Deir el-Bahri] và các công nhân từ từ dọn quang hố rác nằm ở sườn đồi đền thờ Hat-shepsut... Trong hố rác này chúng tôi chú ý đến hai đống mảnh vỡ, bị ảnh hưởng bởi thời tiết suốt nhiều thế kỷ và hầu như bị cát cuốn trôi và đá trùi giấu kín... Có khả năng là cái chúng tôi có ở đây là những đống mảnh vỡ từ việc vào hầm để một vài ngôi mộ chưa được khám phá hay những ngôi mộ trong mảnh đá phiến sét, và chính ở đây mà chúng tôi đặt hy vọng. Vào ngày 23 tháng 02 - sáu tuần sau khi chúng tôi bắt đầu công việc trên đồi - Reis Gilani báo cáo là họ đã tìm thấy một lỗ trong đá dưới chân họ...”

HERBERT E. WINLOCK

Ngôi mộ được đám thợ của Winlock khám phá dưới đền thờ của Hatshepsut ở Deir el- Bahri vào đầu năm 1929 được tìm thấy chứa hai mộ riêng biệt: một mộ được đưa bừa theo lối vào thuộc bà Nany, con gái một vị vua của Triều đại thứ 21; và, ở tận trong cùng của lăng mộ, mộ của một nữ hoàng đầu triều đại thứ 18 có tên là Meryetamun. Sự yên lắng, bóng tối, và việc nhận thức rõ về thời gian mà chiếc quan tài cuối cùng này được bỏ ở đây... tất cả tạo thành một không khí sợ hãi, và mặc dù ai nghĩ thế nào, chuyện này hiếm khi xảy ra khi đào bới.”

Ngôi mộ đầu tiên cho thấy, khi khảo sát chặt chẽ, nó được chú tầm vừa phải - một trong nhiều mộ của thời kỳ này và loại được tìm thấy ở Thebes trong nhiều năm qua - loại mộ sau hoàn toàn độc đáo cả về mặt nghệ thuật lẫn khảo cổ học. Người ta chứng minh là Meryetamun được chôn trong hai quan tài, quan tài ngoài không chỉ có chất lượng cao mà về kích thước nó thật sự to lớn - cao hơn 3 m (10 ft) khi dựng đứng nó gợi nhớ lại những quan tài khổng lồ của nữ hoàng Akhotep và Ahmose - Nofretiri từ địa điểm chôn cất của hoàng gia Deir el-Bahri. Quan tài bên trong của Meryetamun có kích thước nhỏ hơn và trong đó có xác ướp của bà – “trang trí bằng những tràng hoa tươi để cho thấy màu sắc của hoa”.

Mọi thứ về ngôi mộ này đều gọn gàng, có trật tự và hình như chưa ai đụng đến. Tuy nhiên, có một cái gì đó không hẳn là như vậy: đồ tùy táng ít ỏi và nghèo nàn - chứa vừa đủ một vài giỏ mảnh vụn có niêm phong; trong khi ở dưới giếng, các bề mặt quan tài sơn phết của nữ hoàng tất nhiên là khối lượng pha lê khảm được lấy đi; cuộc kiểm tra sau này phát hiện là màu sơn đã thay thế những bề mặt nguyên thủy được đát vàng lá.

Vấn đề hóc búa được giải quyết nhờ minh văn viết bằng mực ở hàng chữ tượng hình trước mảnh vải liệm của Meryetamun: “năm 19, tháng thứ ba của mùa akhet ngày 28. Vào ngày này thanh tra vợ vua Meryetamun”: mộ của nữ hoàng được sắp xếp vào thời cổ đại. Đối với Winlock, điều kiện chôn cất Meryetamun phản ánh một hành vi tôn quý của việc sửa chữa lại các bộ phận mà các tư tế phát hiện là ngôi mộ bị trộm, có lẽ do tình cờ, nhưng giờ chúng tôi biết nhiều hơn. Vì rõ ràng 1à ngôi mộ của Meryetamun bị lột hết tất cả những gì có giá trị - dấu vết của đồ trang sức quý giá của nữ hoàng được tìm thấy trên xác ướp - không phải trước mà trong đợt thanh tra. Các phiếu chỉ dẫn cho thấy, “năm 19” của văn bản “những người trùng tu” là của thầy tư tế tối cao Amun và có thể “vua” Pinudjeim I, suốt Vương triều này việc giải trừ những điều thiêng liêng như vậy là mệnh lệnh chính thức của thời đó - với việc thu gom tài sản của người Thebes chết chắc chắn giúp ông ta giữ vững chế độ đang lung lay và đạt được khát vọng làm vua của mình.

1930 - HŨ VÀNG TỪ EL-AMARNA

Hũ này nằm sâu dưới nền đất độ 3 phân. Một mảnh vỡ trên nắp do cọc buộc súc vật của người dân địa phương. Cảm nhận của ông ta khi nghe được những điều gì đó mà ông ta quên ghi chép, lại bất tiện cho việc in ấn.”

HENRI FRANKFOET VÀ J.D.S. PENDLEBURY

Các cuộc khai quật được Hội thăm dò Ai Cập ở el-Amarna thực hiện giữa năm 1921 và 1936  là tiếp tục khai quật ở nơi Petrie và deutsche Orient - Gesells Chaft bỏ lại, và họ đã phát hiện nhiều bằng cớ lịch sử của cả địa điểm lẫn thời kỳ quan trọng này trong lịch sử Ai Cập. Khai quật của Hội thăm dò Ai Cập được bắt đầu lại với sự chỉ dẫn của Barry Kemp vào năm 1977, và việc đào bới tiếp tục tỉ mỉ hơn.

Công việc được thực hiện ở el-Amarna vào khoảng 1920 và 1930 rất thoải mái . Tuy nhiên, nó mang lại phần chia chác công bằng trong các phát hiện hấp dẫn, và là một dịp trong ánh  lấp lánh của vàng. Vào 1930, đoán của John Pendlebury phát hiện một kho dự trữ kim loại quý chôn dưới sàn một căn nhà (T 36.63) ở ngoại ô phía Bắc của thành phố, đựng trong một hũ lớn tròn cao 24 cm, với một bát nhỏ chụp lên miệng hũ làm nắp. Các nhân công tịch thu nắp và lắc lắc cho đất bên trong đổ ra. Một thanh vàng rơi ra, rồi đến 22 thanh vàng, nhiều bạc, và một tượng thần nhỏ của người Hít-tít bằng bạc với một mũ vàng – theo sau một sự yên  lắng có thể nghe thấy.

Nhiều điều về cuộc phát hiện vẫn còn khó hiểu. Kho dự trữ là một sưa tập kim loại phế liệu để tái chế của một thợ kim hoàn (mặc dù các nhà khai quật nghĩ đó là của ướp được của một tên trộm), phần cuối của những thanh vàng có bằng chứng là chúng được cắt ra khi cần. Hiện vật  đào được đem phân chia ở Cairo, và đa phần những mẫu này được chia ra từng phần cho Hội thăm dò Ai Cập qua Ngân hàng Anh quốc để nấu; họ cho chúng tôi 200 bảng Anh. Số tiền này được gửi cho các quỹ đào bới ở Amarna đợt sau. Phương pháp hiệu quả để gia tăng ngân quỹ như vậy đã diễn ra rất nhiều lần trong quá khứ.

 

 

1929-30: MERSUANKH VÀ CÁC TƯỢnG CỦA ÔNG

Nghĩa địa Giza trong nhiều năm đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà Ai Cập học, nổi tiếng nhất  là các nhà khai quật: George A. Reisner người Mỹ, Herman Junker người Áo, Abdel- Moneim Abu Bakr người Ai Cập, và gần đây là nhà khai quật được nhiều người biết đến Zahi Hawass. Các khai quật của Sebin Hassan, một sinh viên Junker cũng đem lại kết quả. Khoảng 10 năm từ 1929 đến 1939, công việc đã khám  phá một số lớn các ngôi mộ chuẩn bị cho các viên chức thuộc tầng lớp trên và dưới của Vương quốc cổ. Không chỉ một vài khám phá của Hassan mới có những tượng được bảo quản tốt của chủ nhân ngôi mộ và các người đầy tớ của họ; phát hiện nổi tiếng nhất của Junker có lẽ là nhóm tượng hình của người lùn Seneb và gia đình ông ta (Cairo IE 51280).

Giống như vị giáo sư của mình, Hassan xuất bản những gì ông ta tìm thấy trong 10 tập, công bố giữa 1929 và 1960. Một phát hiện có thể dùng để định rõ đặc điểm kết quả - mộ nhỏ thuộc về “người giám thị các chàng trai trẻ của lâu đài”, Mersuankh, một người hầu của viên chức cấp cao cuối triều đại thứ 5, Rawer. Mộ của Mersuankh được phân biệt bởi nhóm nhân vật điêu khắc đá vôi sơn màu chân chất - một hai hoặc một cặp và những tượng gia đình kể cả những người hầu – trong trạng thái gìn giữ tốt, tìm thấy vẫn ở nguyên vị trí trong cấu trúc của  hai serdabs và vứt bỏ trong những đường thông chôn cất bị đánh cắp của ngôi mộ (xem bản danh sách trên).

1929-30 NHỮNG TƯỢNG CỦA MESUANKH

ĐỊA ĐIỂM PHÁT HIỆN

VẬT LIỆU

LOẠI

Serdab 1

Đá vôi

Ba tượng nhỏ của Mersuankh

Serdab 1

Đá vôi

Tượng nhỏ nữ ủ rượu bia

Serdab 2

Đá vôi

2 tượng nhỏ của Mersuankh

Serdab 2

Đá vôi

2 tượng nhỏ của Mersuankh và vợ ông ta

Serdab 2

Đá vôi

3 tượng nhỏ của Mersuankh và hai con gái

Đường thông 145

Đá vôi

Tượng nhỏ một người đàn ông co thể là Mersuankh

Đường thông 151

Đá vôi

3 mảnh của một 2 tượng nhỏ của Mersuankh và Hathorwer

Không biết

Đá granit hồng

Mảnh tượng nhỏ của Mersuankh

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/216-02-633357270058125000/Pharaon-va-nguoi-doi-1914-1945/Mo-nu-hoang...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận