Tài liệu: Mộ của người Nubia của Triều đại thứ 25: Nuri và el-Kurru

Tài liệu
Mộ của người Nubia của Triều đại thứ 25: Nuri và el-Kurru

Nội dung

1916 – 20

Mộ của người Nubia của Triều đại thứ 25: Nuri và el-Kurru

1916 Tượng Amun bằng vàng của Carnarvon

Khám phá/ khai quật 1916 – 20 bởi George A. Reisner

Địa điểmNuri và el-kurru

Thời kỳ Triều đại thứ 25, Vương triều Kashta-Tantamani 770 - 657 + trước CN

Các cuộc khai quật tiến hành trước kim tự tháp - mộ của Taharqa ở Nuri (Nu I): Cảnh tượng xưa về các người đào bới địa  phương và những cậu bé đội thúng, được  giám sát bởi nhà khảo cổ học phương Tây (trong bộ quần áo trắng).

Sự nghiệp khai quật của nhà khảo cổ học người Mỹ George A. Reisner trải dài từ phía Bắc Ciza đến tận cùng giới hạn của ảnh hưởng Ai Cập ở phía Nam, bên kia thác nước thứ 6, nơi ông ta thực hiện các khai quật ở nhiều địa điểm quan trọng. Những địa điểm này gồm có Meroe và vùng được mọi người biết đến là Napata - gồm có Gebel Barkal (nơi ông bắt đầu làm việc vào năm 1915), và những nghĩa địa ở Nuri và el-Kurru, nơi các vị vua Kushite của triều đại thứ 25 của Ai Cập được chôn cất.

Nuri

“Tròng các đồ vật quan trọng đến với chúng tôi từ Nuri, có lẽ loạt tượng [shabti] là có giá trị khám phá nhất. Chúng được tìm thấy hầu như ở mọi ngôi mộ, tất cả đều được khắc chữ, và  chủ yếu tìm chúng mà chúng tôi học tên của những người dân này. Ở một số mộ chúng được  tìm thấy rất dồi dào: đồ vật của chỉ một mình vua Tahatqa đã có trên cả ngàn [l070], tất cả bằng đá cứng, kích thước từ 8 đến 32 inches”

DOWS DUNHAM

Với các kim tự tháp Nuri ở phía sau, hai công nhân người Sudan của Reisner sắp xếp, phân loại các shabtis tìm thấy ở mộ ở Taharqa (Nu I) năm 1917.

ĐỊA ĐIỂM KHAI QUẬT CỦA G.A. REISNER Ở SUDAN

ĐỊA ĐIỂM

NĂM KHAI QUẬT

Khảo sát khảo cổ học

1906 – 11

Begrawiya (Merse)

1920 – 23

Gebel Barkal

1916, 1918 – 20

Kerma

1913 – 16

Kumma

1924

El-Kuru

1918 – 19, 1920

Mirgissa

1931 – 32

Nuri

1916 – 1918, 1920

Semna

1924, 1927 – 28

Shalfak

1931

Uronarti

1924, 1928 – 30

Tất cả cho Bảo tang Mỹ thuật, Boston/ Đại học Harvard

 

(Trên) Tấm vàng trang sức xác ướp thể hiện Isis với cánh, lấy ở kim tự tháp 10 ở Nuri. (Dưới) Một sưu tập các shabtis ở Taharqa cho thấy đủ kích thước và vật liệu. Chất lượng các điêu khắc này cũng ấn tượng như số lượng tìm thấy.

Các khai quật của Reisner ở Nuri được thực hiện nhiều đợt bắt đầu từ năm 1916, và tận mắt khám phá các ngôi mộ của khoảng 20 vị vua và 53 phụ nữ thuộc hoàng gia có niên đại từ năm 690 đến năm 337 trước CN. Tên của chỉ một vài nhà cai trị này được lịch sử biết đến, quan trọng nhất là Taharqa, vị pharaon người Nubia đầy quyền uy và dưới sự cai trị của ông, Ai Cập sau một thời kỳ dài bị bế tắc về chính trị kéo theo sự sụp đổ của vương quốc mới đã trở nên thịnh vượng.

Mặc cho sự xa cách, các tập quán chôn cất phát hiện trong công trình của Reiner ở Nuri gần như hoàn toàn của Ai Cập. Không chỉ các vua được chôn trong các kim tự tháp mà tất cả các loại của tùy táng. (gồm có quách nằm trong những quan tài hình người, mặt nạ bằng kim loại quý đồ trang sức hình bọ hung và các thứ bùa cùng biểu chương vương quyền như các chậu bằng vàng, đá và gốm, thực phẩm và các mặt hàng khác, cất giữ trong ba phòng đục trong đá, nằm dưới kim tự tháp. Trong các đền thờ chôn cất nhỏ dựng lên ở mặt đông của những kim tự tháp này người ta đặt các bia đá và bàn lễ vật như ở el-kurru (dưới) các ngôi mộ đã bị cướp. Một trong những ngôi mộ phong phú nhất được dọn quang là mộ của Aspelta, người kế nhiệm Taharqa. Nhờ một mái cổ sụp xuống, nên ở đây còn giữ gìn được nhiều hơn những thứ đã được đi dời khỏi các ngôi mộ chôn khác.

El-Kurru

“Một vài dặm (1 dặm = 1,609 km) xuôi theo dòng sông từ Gebel Barkal là nghĩa địa  El-Kurru sớm nhất của người Kushite... Một địa điểm đã bị tàn phá nhưng có cái đáng chú ý  là đây đoàn thám hiểm đã tìm thấy những ngôi mộ duy nhất của tất cả các vị vua của Triều đại  thứ 25 Ai Cập, những người cai trị  Của Kush giành lại ưu thế so với Ai Cập suy tàn và chiếm  lại ngôi vị chúa tể xưa kia... Công việc này đã rọi sáng vào một thời kỳ, cho đến nay ít được  biết đến của lịch sử cổ đại, và mang lại một và đồ vật nho nhỏ đẹp nhất mà chúng ta có ở Bảo  tàng [Boston]”.

DOWS DUNHAM

Công việc của Reisner ở Nuri làm cho ông bối rối: với qui mô và tầm cỡ to lớn của nghĩa địa, ông ta hoàn toàn có lý khi hy vọng khám phá ra những ngôi mộ của các vị vua Kushite, những vị đã làm dao động Ai Cập suốt triều đại 25. Thật thế, ông ta đã tìm thấy một trong sáu mộ ở Taharqa. Các mộ khác ở đâu? Đợt khai quật sau (1918 - 19), Reisner chuyển nhân công của mình đến một địa điểm không hứa hẹn gì ở bên kia sông - el-kurru, đánh dấu bởi một kim tự tháp độc nhất đã bị phá hủy. Ông ta hy vọng kiếm được mỏ của mình, nhưng sự  hoài nghi của ông ta đã đặt sai chỗ.

1916 - TƯỢNG AMUN BẰNG VÀNG CỦA CARNAVON

Bộ sưa tập những cổ vật Ai Cập do bá tước Carnavon thứ V thu thập, dưới sự hướng dẫn của người phụ tá là bạn Howard Carter, chứa đựng nhiều hơn phần được chia các tác phẩm, trong đó có tượng bằng vàng khối tuyệt vời này về thần Amun. Carter sở đắc bức tượng cao 18 cm (7in.) trong tình trạng hư hỏng, vào năm 1917, từ một người buôn bán ở Cairo. Ông được thông báo rằng tác phẩm này được Sebakhin đào lên năm trước ở khu vực Bắc của ngôi đền lớn của Amun ở Karnak - một xuất xứ có vẻ hợp lý nhưng không thể chứng thực. Mặc dù  Carter tin rằng hình tượng này có từ triều đại thứ 18 - đặc biệt vương triều của Tuthmosis III -  nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Cyril Aldred chứng minh dựa vào đặc điểm phong cách, bức tượng này là một sản phẩm của triều đại thứ 22.

Bức tượng này là một trong những tượng thần quan trọng nhất bằng kim loại quý được đem ra ánh sáng ở Ai Cập là điều không thể chối cãi. Có lẽ vì qui mô của nó, một lễ vật tạ ơn sang trọng hơn là một tượng thờ. Bức tượng có giá trị này như là một trong những kho báu của nghệ thuật Ai Cập ở Bảo tàng Metropolitan ở New York (MMA 26.7.1412).

MỘ HOÀNG GIA CỦA TRIỀU ĐẠI THỨ 25

VUA

NĂM THÁNG

VỊ TRÍ

Kashta

770 – 750

El-Kurru (?)

Piye (Piankhi)

750 – 712

El-Kurru (Ku 17)

Shabaka

712 – 698

El-Kurru

Shebitku

698 – 690

El-Kurru

Taharqa

690 – 664

Nuri (Nu 1)

Tantamani

664 – 657 +

El-Kurru

Nghĩa địa ở el-Kurru cho thấy đã được thiết lập vào khoảng trong hay cả trước thiên niên kỷ thứ 2 trước CN, và việc sử dụng nó được chia làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn I, giai đoạn thuần túy của người Kush kéo dài một thế kỷ hay  hơn, với những ngôi mộ phát triển từ một nấm mồ khiêm tốn đến một lăng mộ bằng đá hình chữ nhật ở trên một cái huyệt chôn đơn giản - tất cả đã bị cướp bóc nặng nề . Các mộ của giai đoạn sau, bắt đầu khoảng năm 750 trước CN, có siêu cấu trúc bằng đá theo hình dạng các kim tự tháp mảnh hơn, với cầu thang dẫn đến một hay hai phòng chôn cất đục trong đá. Cuộc khai quật các mộ thuộc giai đoạn muộn này phát hiện bằng chứng xa hơn nữa về việc áp dụng tập quán chôn cất theo kiểu Ai Cập kể cả việc moi ruột (chứng thực qua hiện hữu của thiết bị đựng di hài và quan trọng hơn, các tượng - shabti - một chỉ dẫn về việc hiến sinh người, đã từng được thực hành rộng rãi trong vùng và bây giờ là việc của quá khứ. Tuy nhiên, tập quán chôn cất trên giường đặc trưng của người Nubia, được ưa thích hơn là chôn trong một quan tài vẫn được tiếp tục với phần lớn những người không thuộc hoàng gia.

Mặc dù vậy, nghĩa đại ở el-Kurru bao gồm cả những mộ của các nữ hoàng người Kush có danh giá, đã bị đổ nát vào thời cổ đại vẫn là công trình của Reisner cho thay, một thách thức lớn cho nhà khảo cổ được chỉ định để tìm kiếm, kể cả các đồ kim loại quý và đồ trang sức.

(Trái) Tượng khổng lồ của Taharqa (nguyên thủy đứng cao trên 4m (13ft); tìm thấy ở Gebel Barkal (đền thờ B 800) trong những cuộc khai quật của Reisner. (Phải) Bình rảy rượu cúng hình kèn bằng đồng thanh lấy ở mộ của vua Piye (Piankhi) thuộc Triều đại thứ 25, el-Kurru (KV 17).

 

 

 

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/216-02-633357255861562500/Pharaon-va-nguoi-doi-1914-1945/Mo-cua-nguo...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận