Tài liệu: Người Hrê

Tài liệu
Người Hrê

Nội dung

NGƯỜI HRÊ

Hiện có 113.111 người. Địa bàn cư trú ở tỉnh Quảng Ngãi. Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme (ngữ hệ Nam Á).

Chủ yếu làm ruộng nước, một bộ phận làm rẫy. Thường nuôi trâu, lợn, chó, gà. Nghề thủ công có đan lát và dệt vải nhưng kém phát triển.

Ăn cơm tẻ, ngày lễ có thêm cơm nếp. Thức ăn chủ yếu là những thứ kiếm được và muối ớt, khi cúng bái có thịt con vật hiến sinh. Theo tập quán ăn bốc. Thức uống có nước lã, nước chè xanh, rượu cần. Phổ biến việc hút thuốc lá và ăn trầu cau. Nhà sàn có cửa ra vào ở mỗi đầu và một mặt bên. Phụ nữ mặc váy ống kiểu hai tầng, có áo, khăn trùm đầu. Đàn ông đóng khố, chít khăn.

Cư trú phía chồng hay vợ là do thỏa thuận giữa hai gia đình. Vợ góa có thể lấy tiếp em chồng, chồng có thể lấy cả em vợ. Việc sinh đẻ diễn ra bên cạnh bếp lửa trong nhà, có bà đỡ hộ sinh. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, có làm nhà mồ.

Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo. Lễ hội đâm trâu là lễ hội lớn nhất. Họ ăn tết vào tháng 10 âm lịch, sau vụ thu hoạch lúa. Ngày tết có cúng cho trâu và lợn, cầu sinh sôi, cúng mời tổ tiên và cúng sức khỏe cho mọi người trong nhà.

Nhạc cụ thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hộp âm, sáo, nhị, đàn môi. Dân ca phổ biến là điệu KlêuKachoi. Truyện cổ được lưu truyền như là một vốn quý trong văn hóa dân tộc.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/273-26-633349654084766250/Cong-dong-cac-dan-toc-Viet-Nam/Nguoi-Hre.h...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận