NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC
Nói đến nguồn gốc của triết học có nghĩa là nói đến những nguồn nào đã thúc đẩy, đã làm cho người ta có những động cơ, những nhu cầu để suy tư triết lý, tiến xa hơn là nêu ra, xây dựng nên những lý thuyết triết học. Có nhiều nguồn thúc đẩy, đưa con người đến những suy tư mang tính triết lý, rồi được tổng hợp, nâng cao lên thành những cách lý giải sự vật, những niềm tin trên cơ sở những nhận thức đã xác lập được đó là: Triết học. Nói thật giản lược triết học với nghĩa là nỗ lực tư duy của con người để nhận thức, lý giải thế giới tự nhiên, con người và xã hội, khởi thuỷ từ ba nguồn chính đó là: Sự ngạc nhiên, sự hoài nghi và sự thất bại của con người trong những nỗ lực này.
1. Sự ngạc nhiên: Sự ngạc nhiên của con người đối với nhiều vấn đề trong thế giới thiên nhiên, trong xã hội, trong đời sống của con người chính là một nguồn, một sự gợi mở để cho con người triết lý, vì sự ngạc nhiên đã thôi thúc con người tìm hiểu để biết mọi điều. Platon đã nói rằng: ''Nguồn để phát sinh triết lý chính là biết ngạc nhiên''. Chẳng hạn khi nhìn những cảnh tượng hùng vĩ của các vì tinh tú: Những ngôi sao, mặt trời, mặt trăng, những mây, những gió, những ánh sáng rực rỡ ban ngày, những đêm tối mịt mùng trong đêm, những trận cuồng phong, bão táp, lụt lội, những mưa sa, sấm sét.. . những con người xưa lấy làm hết sức ngạc nhiên, và những hiện tượng thiên nhiên đó, đã thôi thúc họ có những ước muốn tìm hiểu, lý giải chúng. Nhiều vấn đề trong đời sống xã hội, và ngay trong cả bản thân đời sống của con người có rất nhiều sự việc hoàn cảnh gây ra những điều làm cho con người phải ngạc nhiên và thúc giục, kích thích phải tìm hiểu, phải lý giải.
Aristote nói: ''Chính sự ngạc nhiên thôi thúc người ta triết lý''. Thoạt tiên con người bỡ ngỡ trước những hiện tượng họ bắt gặp và cảm thấy kỳ lạ trong vũ trụ, trong đời sống . . . Đi xa hơn nữa, họ đặt những câu hỏi về những sự việc, những hiện tượng đó, rồi cố tìm ra những câu trả lời, những giải thích cho những sự việc, những hiện tượng, những điều đã làm họ ngạc nhiên ấy. Đó chính là những nguồn gốc để con người suy tư triết lý để làm triết học.
Như vậy có được sự ngạc nhiên ở trong ta là đã biết được những điều ta còn chưa hiểu, còn ''dốt'' của ta. Nếu đã biết được, hiểu được điều đó hoặc cảm thấy như vậy thì không còn ngạc nhiên nữa. Tuy nhiên, không cảm thấy ngạc nhiên về một điều gì đó, không nhất thiết là đã hiểu nó, càng không có nghĩa là thông thái. Có những người trong đời chẳng bận tâm, chẳng ngạc nhiên về bất cứ điều gì, do cách sống vô lo, không thích tìm hiểu và có thể còn do lười suy nghĩ. Cho nên thái độ, tâm trạng luôn luôn bị ngạc nhiên thường thấy ở những người ham hiểu biết thích khám phả, thích tìm tòi. Đó chính là những dấu hiệu đầu tiên của những người yêu triết lý, thích triết học nói riêng và những người thích làm khoa học nói chung.
2. Sự hoài nghi: Sự hoài nghi cũng là một nguồn thúc đẩy nhiều người đi tìm chân lý, suy tư triết lý. Thường thì con người trong quá trình sống mỗi ngày lại hiểu biết thêm nhiều điều hơn. Những người có cuộc đời từng trải hiểu biết nhiều điều hơn so với những người ít từng trải. Trường đời luôn dạy họ hiểu biết thêm nhiều điều. Cũng như vậy, những người ít học sẽ hiểu biết ít hơn những người học hành nhiều. Nhưng nhiều khi càng từng trải nhiều, càng được học nhiều lại làm cho người ta tăng thêm những nỗi hoài nghi, bởi lẽ những người này thường tự nhìn lại, suy xét lại càng từng trải nhiều, càng được học hành nhiều càng thấy nhiều điều trước đây mình hằng tin tưởng, cho là chân lý, thì nay thấy có mặt này mặt khác phải nhìn nhận lại, hoặc thậm chí có những điều sai, hoặc đáng hoài nghi, thậm chí phải phủ nhận. Thật vậy trong cuộc đời, chúng ta thấy có nhiều điều ta biết, ta hiểu, ta tin trước kia đã thực sự chẳng còn có gì đáng tin, chẳng có gì là chắc chắn nữa khi chúng ta có thêm những hiểu biết mới, những kiến thức mới. Ngay cả những tri giác, những cảm giác của chúng ta được sự điều khiển của những giác quan, những sự kiểm duyệt của lý trí, nhiều khi cũng lừa dối ta. Cho nên tâm lý hoài nghi, tư tưởng hoài nghi thường thấy ở những người hiểu biết rộng nhưng thích suy xét và tìm hiểu.
Do vậy, hoài nghi cũng là một nguồn tư duy thúc đẩy ta tìm kiếm những kiến thức, những hiểu biết mới, đi dần tới chân lý đích thực. Muốn triết lý ta phải biết hoài nghi trên cơ sở hiểu biết ngày càng sâu rộng, cũng có nghĩa là hoài nghi đến cùng. Nếu không biết hoài nghi như vậy, tư tưởng ta, suy tư của ta, hiểu biết của ta sẽ đứng yên tại chỗ. Điều này sẽ dẫn tới tâm lý thoả mãn, nguyên do quan trọng của tính bảo thủ hoặc của những ngu dốt mới.
Chính do có tâm lý hoài nghi, tư tưởng hoài nghi trên cơ sở nhận thức và hiểu biết ngày càng mở rộng, mới đẻ ra được, mới xây dựng lên được ở ta óc phê phán, phương pháp phê bình những đối tượng, những vấn đề triết lý, những vấn đề khoa học mà ta quan tâm. Nếu không hoài nghi triệt để thì không bao giờ có thể suy tư triết lý, càng không thề làm triết học một cách thực thụ được.
Descartes chính là nhà triết học lấy nhận thức và lý trí hoài nghi sự vật để tìm hiểu sự vật từ đó coi tư duy là tất cả giá trị của con người. Nỗ lực này đã dẫn dắt Descartes tới triết lý: ''Tôi tư duy tức là tôi tồn tại'' (''cogito, ergo sum!''). Trên nền móng ấy Descartes đã xây dựng lên được một toà nhà triết học đồ sộ, xứng đáng đóng vai trò của "Người cha triết học'' cho nhiều trào lưu, nhiều triết gia lỗi lạc sau này. ''Cogito ergo sum!'' còn là một khả năng và nhân cách tuyệt vời của con người! (Cần phân biệt hoài nghi là một phương thức của tư duy với ''chủ nghĩa hoài nghi''!).
E.Kant, một triết gia lớn của mọi thời đại, nhà triết học được mệnh danh đã làm một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử triết học phương Tây, trong bộ ba tác phẩm phê bình vĩ đại của mình ''Phê phán lý trí thuần tuý'' (Critique de raison pure), ''Phê phán lý trí thực hành'' (Critique de raison pratique), ''phê phán khả năng phán đoán'' (Critique du jugement), đã vận dụng và sáng tạo một phương thức tư duy rung lên mức độ phê phán những chân lý cũ của những học thuyết triết học của các triết gia trước đó ở những vấn đề mà ông quan tâm đã mang lại những kiến giải mới về nhận thức thế giới và sự vật. Bộ ba tác phẩm phê bình vĩ đại ấy là giường cột của triết học Kant.
Ở giai đoạn sau này của lịch sử triết học phương Tây giai đoạn triết học phương Tây hiện đại, người ta thấy E.Husserl, nhà triết học hiện tượng luận phénoménisme (phénomenologie), một khuôn mặt lớn của triết học phương Tây hiện đại mà triết học của ông đã có ảnh hưởng lớn đến nhiều học thuyết trào lưu triết học đương thời, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh (Existentialisme), cũng đã học tập phương pháp hoài nghi của Descartes để xây dựng học thuyết triết học của mình. Husserl gọi phương pháp hoài nghi này của mình là ''kỹ thuật đặt thế giới trong ngoặc'' (Mettre le mon de entre parenthèses). Có nghĩa rằng ông sẽ cho vào trong ngoặc tất cả những cách hiểu của các vấn đề triết học mà ông quan tâm của các nhà triết học trước ông - nói một cách hình tượng hơn là vì có tư tưởng hoài nghi và không muốn bị ảnh hưởng, bị chi phối, nên Husserl muốn đóng gói tất cả các học thuyết triết học của những người đặt trước ông thành một bọc, để ông thảnh thơi hơn, tự do hơn trong khi xây dựng những lý thuyết của mình.
Nói tóm lại có thái độ, có tư tưởng hoài nghi với tất cả những gì đã được gọi là đúng đắn, chắc chắn, là chân lý cũng là một nguồn quan trọng cho những triết gia nói riêng và những người làm khoa học nói chung. Tất cả cho thấy: Khoa học và đời sống đều cần tới đầu óc phê phán.
3. Sự thất bại: Épitète một triết gia của trường phái khắc kỷ (Stoicisme) đã nói rằng: ''Nguồn triết lý là nhờ khi ta bị rơi vào hoàn cảnh bất lực và sự thất bại''. Mỗi khi con người trong cuộc sống bị đẩy vào những hoàn cảnh giới hạn, bị dồn vào chân tường, gặp phải những sự thất bại, những người có lý trí, có nghị lực, có nhiều nỗi đam mê, luôn luôn muốn tìm ra những cách thức, những lý lẽ để thoát ra khỏi hoàn cảnh đó, khỏi những đường hầm bi đát, đen tối ấy. Nói cách khác họ sẽ tìm mọi cách để thấu hiểu, lý giải sự bế tắc, những thất bại trong cuộc đời, trong công việc để tìm ra những cách thức, những con đường, những sáng kiến cho lối thoát. Tương lai của con người thực ra tuỳ thuộc đáng kể vào thái độ của họ đối với những thất bại mà họ gặp trong cuộc đời. ''Thất bại là mẹ thành công!'' như nhiều người trong cuộc sống đã nói như vậy. Sự thất bại trong cuộc đời làm cho con người đau đớn, dằn vặt, khiến con người phải trăn trở, suy tư, tìm hiểu… Nhờ đó con người có khả năng thấy được hoặc khám phá ra những điều sâu sa, sống động, tạo dựng nên những triết lý nhiều khi sâu sắc và thâm thuý.
Giả định rằng cuộc đời lúc nào cũng vui vẻ hớn hở, lúc nào cũng tràn đầy sung sướng, tràn đầy hạnh phúc, thì chưa chắc đã nói lên được đã viết nên được những triết lý, những chân lý trác tuyệt. Hơn nữa, ngẫm nghĩ đến cùng, cuộc đời không bao giờ chỉ có một chiều như vậy, càng không bao giờ có một cuộc đời hoàn hảo.
Nhìn vào lịch sử triết học nói riêng và vào lịch sử của văn học nghệ thuật, khoa học nói chung, chúng ta thấy các thiên tài triết học, những thiên tài của văn học nghệ thuật và khoa học thường là những con người có những cuộc đời đầy thăng trầm, nhiều nỗi u buồn và khổ đau, tức là những con người phải đối mặt với những thất bại. Nhưng khác với những người thường, họ chấp nhận mổ xẻ sự đối mặt ấy để tìm ra những khía cạnh mới của chân lý, của chân thiện mỹ. Có lẽ chính vì thế mà họ mới trở thành những người sâu sắc và tài ba.