PERCY BYSSHE SHELLEY (1792 - 1822) NHÀ THƠ ANH
Percy Bysshe Shelley (Perxi Bis Sely) là nhà thơ Anh. Shelley sinh ngày 4 tháng Tám 1792, trong một gia đình quý tộc giàu có ở Philđ Playx, gần Horsam. Thời nhỏ, học ở trường trung học Itơn dành cho con em quý tộc, lớn lên vào học Đại học Oxford. Nhưng ông là người có đầu óc tự do, say mê văn học, triết học. Ông tiếp nhận tư tưởng dân chủ của Rousseau, quan điểm vô thần Voltaire. Năm 19 tuổi bị đuổi khỏi Đại học Oxford vì viết bản luận văn Sự cần thiết của chủ nghĩa Vô Thần. Bị cha cấm cửa, những người thân xa lánh, ông liền tới London lấy cô gái 16 tuổi tên là Hariet Oexbruc làm vợ. Nhưng ngay sau đó phải ly dị vì không hòa hợp. Năm 20 tuổi, tham gia phong trào giải phóng của nhân dân Ailen. Kết hôn với một con nhà triết học duy tâm Uyliam Gôtuyn, người có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Shelley. Năm 1816, Shelley rời Anh, cùng vợ sang sống ở Italia và Thụy Sĩ, trở thành bạn thân của Byron, Kilx. Ông bị chết bởi nạn đắm tàu do bão lớn tại Via Rêghiô (Italia) khi vừa 30 tuổi (8- 7-1822).
Tác phẩm của Shelley sau luận văn Sự cần thiết của chủ nghĩa Vô Thần (1811), là Hoàng hậu Margo (1813), viết khi ông còn ở Anh. Phần lớn những tác phẩm xuất sắc đều được viết trong thời gian ở Italia và Thuỵ Sĩ. Thơ gửi gió Tây (1819), kịch thơ Promethée được giải phóng (1820). Cuộc nổi dậy của Thế giới Hồi giáo (1818), Đám mây (1820), Gửi con chim sơn ca (1820), Hêlax (1821), Ađônaix (1821). Chiến thắng cuộc đời xuất bản 1824, sau khi ông mất. Shelley được xem là đại diện ưu tú của chủ nghĩa lãng mạn cách mạng ở Anh. Ông tin tưởng vào cách mạng tư sản Pháp, thơ ông tuyên truyền cho tư tưởng cấp tiến và vô Chính phủ, đề cao nhân dân và sự tự giải phóng của nhân dân nhờ tình yêu và lý tưởng, ủng hộ nền tự do của Hy Lạp... Thơ ông không thiên về phê phán, mà chủ yếu là ngợi ca, chan chứa tình lạc quan, tin tưởng. Ông xây dựng hình tượng anh hùng mới, những anh hùng của nhân dân. Thơ ông là tiếng reo của cả thế hệ mới, báo hiệu một tương lai sáng đang đến gần. Cùng với Byron, Kitx, Shelley góp phần làm thành thế hệ thứ hai của thơ ca lãng mạn Anh.