PIERRE EUGENE MARCELIN
BERTHELOT (1827 - 1907)
Pierre Eugene Marcelin Berthelot sinh ngày 27- 11- 1827 trong gia đình một Bác sĩ ở Paris. Sự nghiệp khoa học của Berthelot bắt đầu rất sớm với những thành công rực rỡ.
Vào những năm 1850, ông nghiên cứu thành phần và tính chất các hợp chất hữu cơ đa dạng: glixêrin, rượu mêtylic, benzen, naphtalen, axêtylen, êtylen,... và ông đã tìm ra các phương pháp tổng hợp chúng. Đun nóng glixêrin và axit béo no trong ống hàn kín, ông đã thu được các chất béo động vật và thực vật, phát minh đó tiếp theo các công trình của F.Wohler và các nhà hoá học hữu cơ khác đã giáng một đòn quyết định vào học thuyết duy tâm ''sinh lực” cho rằng các chất hữu cơ cơ bản (protit), chất béo (lipit) và đường (gluxit) làm nên những cơ thể sống không thể điều chế trong phòng thí nghiệm. Dựa trên những nghiên cứu đó, sau này người ta đã xây dựng nền công nghiệp các chất béo thực phẩm.
Trong suốt 50 năm, bắt đầu từ năm 1951, Berthelot nghiên cứu những hiđrocacbon và đã tổng hợp được hàng loạt chất hữu cơ loại này cũng như dẫn xuất của chúng chứa oxy và nito.
Berthelot đóng vai trò to lớn trong việc phát triển nhiệt hoá, nhiệt động lực học và động hoá học. Ông đã đưa ra khái niệm về phản ứng phát nhiệt và thu thiệt, là một trong những người đầu tiên xây dựng phương trình tốc độ phản ứng, phân tích điều kiện cân bằng của quá trình este hóa và xà phòng hóa quan trọng đối với thực tế. Ông tìm ra quy luật cháy của các chất nổ, xác định tốc độ lan truyền của sóng nổ và đặc tính khác của sự nổ. Ông tổ chức sản xuất thuốc đạn và bom để bảo vệ Paris trong chiến tranh Pháp - Phổ (1870).
Trong lĩnh vực hóa nông nghiệp và hóa sinh học, Berthelot đã giải thích vai trò của vi sinh vật cố định đạm cũng như vai trò của carbon, nitơ và những hợp chất của chúng là nitrat trong quá trình phát triển của thực vật.
Người ta gọi Berthelot là ''Lavoisier của Thế kỷ XIX” vì cũng giống như Lavoisier, ông nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau: vật lý và hóa học, triết học và khảo cổ học, lịch sử khoa học và sinh lý học, ông đã viết khoảng 2500 công trình về các ngành tri thức khác nhau.
Ông mất ngày 27-3-1907 vì bệnh đau tim và thi hài ống được an táng tại Điện Panthéon dành cho các danh nhân nổi tiếng của nước Pháp.