Em Còn Muốn Chừng Nào Anh Còn Nhớ Chương 10

Chương 10
Người đàn ông mà người ta gọi là Người Da Đỏ ấy, bởi vì anh giống những người da đỏ trơ hoàn toàn về độ cao,

 đã thực hiện chuyến đi dài hai ngày trên chuyến tàu xuất phát từ nhà ga ở nước ngoài. Trước khi lên đường, anh đã cạo râu và cắt tóc như mỗi lần anh làm việc ở những công trình lớn và không có thời gian để làm những việc ấy. Anh cũng mang quần áo đi giặt là, thành ra anh đi đường mà ăn mặc giống như đi đám cưới, hai má và sau gáy xanh hơn da mặt, với chiếc quần đẹp nhất và chiếc áo vét kéo xéc màu đen duy nhất của anh.

Con tàu cũ kỹ và ầm ĩ, các hàng ghế lốm đốm bẩn và các ô cửa kính nhờ nhờ tối vì khói bám và vết dầu mỡ. Nó phải xuyên qua một nước và vượt biên giới rồi mới đến đất nước lân cận. Các ô trong toa tàu gần như luôn trống khách trong suốt chuyến đi, ngoại trừ một bác nông dân già đợi tàu từ một nhà ga mà cũng không phải là một nhà ga, chính xác là một bãi sỏi dọc theo đường ray nơi cuối một con đường mòn hun hút dẫn vào làng. Ông già mang theo một chiếc va li giả da và mặc bộ quần áo tối màu đã lỗi mốt, trông vẫn mới nhưng khoác trên cơ thể gầy gò của ông trông như thể ông chỉ mặc nó mỗi một lần, và lần đó cách đây rất lâu rồi. Ông già gật đầu chào Người Da Đỏ nhưng không nói một lời, rồi ngồi gần ô kính và nhìn khung cảnh đang trôi, hai bàn tay nắm chặt lấy thanh vịn mỗi lần con tàu phanh lại hay tăng tốc hoặc hú còi, cứ như đây là chuyến đi tàu đầu tiên của ông, Người Da Đỏ nghĩ vậy, hay như thể ông đang ngồi trong một chiếc máy bay gặp cơn giông bão. Anh rất muốn hỏi ông già đi đâu, có việc gì, và muốn thông thạo ngôn ngữ của đất nước này - khác với ngôn ngữ của anh - để trao đổi với nhau một vài câu, nhưng ông già quá đỗi nghiêm trang và trịnh trọng, lại luôn quay mặt ra ô cửa kính khiến anh không dám lên tiếng. Sau năm giờ đồng hồ dịch chuyển, ông già đứng lên, chào anh một lần nữa và xuống một sân ga nhỏ bé vùng nông thôn. Người Da Đỏ nhìn theo bóng ông dần xa, đơn độc đi qua cánh đồng, trời nhẹ mưa nhưng ông già hình như không nhận ra.

Ngoại trừ khoảng thời gian có ông già trong toa, Người Da Đỏ mới ngồi lịch sự, khép cửa sổ, còn lại, anh nằm dài trên băng ghế, chân chĩa ra cửa, mặt quay về ô cửa kính. Ô kính quá bẩn đến mức chỉ cần nhìn liếc qua đã nhận thấy và anh phải hạ hẳn nó xuống dù trời lạnh, lôi hai chiếc áo pull từ trong túi mặc vào người rồi mặc chiếc áo vét bên ngoài và lại nằm dài. Anh nhìn ra ngoài rất lâu. Anh thích những chuyến đi bằng tàu hỏa như thế này, thích những lúc ngắm bầu trời - đôi khi anh lấy cuốn sổ bọc vải ra khỏi túi và ghi chép vài dòng - anh thích nhìn những đám mây với các màu sắc thay đổi theo từng vùng và theo từng ngày đi qua. Thế nhưng, anh lại không để ý đến phong cảnh đã không ngừng thay đổi, anh không biết từ những tán cây nào, từ mái nhà nào hay từ đầm lầy nào đàn chim bay lên, đôi khi bay ngang qua tầm nhìn của anh.

Đôi lúc anh vẫn còn lấy làm sung sướng khi được là người lớn di chuyển dưới bầu trời chứ không còn là đứa trẻ nhỏ để bầu trời di chuyển trên đầu như ngày xưa. Ngày ấy, phòng ngủ của anh ở ngay dưới mái nhà và có một cửa sổ mái, là nơi duy nhất mở ra bên ngoài, ngoại trừ một khe hẹp mà phía sau đó mọc lên một cây đoạn chiếu bóng lá lên bức tường. Cái bóng đó xoay đều đặn, như các kim của một chiếc đồng hồ, theo hành trình của mặt trời. Thời gian anh nằm dài dưới ô cửa sổ ấy còn nhiều hơn cả thời gian ở trường hay chơi với các bạn. Anh thường để ánh mắt mất hút phía trên cao cho đến khi có được cảm giác bỗng dưng bay bổng, vượt qua trở ngại nhỏ bé của ô kính rồi chìm đắm trong không trung. Anh nằm nhiều giờ như thế, không động đậy, không suy nghĩ, và chỉ trở lại với chính anh khi bóng tối buông xuống và mẹ anh vào phòng, bật đèn ngủ. Những lúc ấy, anh không nhìn lên bầu trời nữa, gương mặt phản chiếu trong kính cửa sổ, cơ thể nằm ì trên giường, đờ đẫn tiếc nuối. Bố mẹ nghĩ anh ngủ mà không nhắm mắt; đôi lúc họ thử đứng cạnh giường, huơ tay trước mặt anh, gọi nhỏ tên anh, khẽ lắc rồi lắc mạnh, cho đến lúc anh giật mình thức tỉnh.

Rồi một ngày, phải ngắm bầu trời qua cửa sổ mái trở nên không đủ với anh. Anh lôi một chiếc ghế ra giữa phòng, trèo lên trên và áp mặt sát tấm kính. Một vài ngày sau, anh ra khỏi nhà và hành động đầu tiên của anh là tìm cách vượt qua chiều cao của căn phòng. Anh trèo lên thân cây có tán lá vẫn đong đưa hàng ngày từ khi anh được sinh ra và không biết độ cao chính xác của nó lúc anh vẫn còn nằm trên giường. Cái cây dường như đã kiên nhẫn chờ đợi anh nên đã tạo ra những kẽ nẻ và hốc ngoằn ngoèo mà đứa trẻ có thể thọc tay hay đưa chân vào.

Ngày hôm sau, anh trèo lên cao hơn, và ngày tiếp sau còn cao hơn nữa. Thế rồi anh tìm thấy những cây khác cao hơn, và khi đã trèo lên tất cả những cây cao ấy, anh bắt đầu trèo lên các mái nhà của thành phố. Anh thích mái nhà hơn cây, bởi vì không còn gì ngăn cản giữa bầu trời và anh, anh yêu bề mặt bằng phẳng của các mái nhà mà trên đó với anh, có cái gì đó như đã được sắp đặt - thứ mà những người khác trong sự ngây ngô của họ gọi là bầu trời, mặc dù, nó chỉ đơn giản là sự bao la của thế giới. Anh nằm im, nín thở, trong khi cái thứ rộng lớn kia đồng thời vừa chuyển động vừa bất động, có chút nghịch ngợm đẩy một hơi thở chậm trước mặt và xung quanh anh. Anh định đưa tay vuốt ve hơi thở ấy như vuốt ve một con vật, nhưng rồi anh chỉ mỉm cười với nó; rồi đột nhiên khoảnh khắc ấy trôi đi, anh không biết cái thứ kỳ diệu ấy chạy trốn khi nào, vào lúc nào, chỉ biết rằng bao quanh anh chỉ còn là trống rỗng và anh lại cô đơn một lần nữa.

Khi mới lên tám tuổi, thời gian anh ở trên các mái nhà nhiều hơn cả thời gian ở dưới mặt đất. Cho dù anh vẫn luôn cố ẩn vào những chỗ kín đáo, nhưng cuối cùng, một người hàng xóm vẫn phát hiện ra anh, ông ta đã gọi anh xuống một cách vô ích trước khi chạy đi tìm bố mẹ anh, anh vẫn như điếc trước những lời cầu  xin cũng như dọa nạt của bố mẹ. Khi anh trở lại mặt đất, thường vào lúc chiều tàn, bố anh thường nện cho một trận và nhốt anh trong phòng ngủ, nhưng ngay khi có thể - trên đường đến trường, ngay lập tức chiếc cặp bị quăng vào đám cỏ - anh trèo phắt lên cái cây đầu tiên, bức tường đầu tiên gần với bầu trời nhất.

Bà anh là người duy nhất có vẻ hiểu anh. Nhiều lần bà đã giải thoát cho anh, bà lấy ra từ chiếc túi bí mật nhất chiếc chìa khóa mà bố mẹ anh không hề biết đến và dường như chiếc chìa khóa ấy có thể mở mọi cánh cửa trong ngôi nhà. Khi anh tuồn qua khe cửa hé mở, bà đón chào anh với một nụ cười mà anh hầu như không bao giờ nhìn thấy, nụ cười để lộ những chiếc răng nhỏ, vuông chằn chặn và đều đặn có màu vàng của chiếc ngà cũ. Anh ôm bà, biểu lộ tình cảm với người bà thâ yêu như đến từ nơi rất xa - bởi vì khi ngủ và đôi khi ngay cả khi thức, bà tạo cảm tưởng như bà đã chết, như bà đang ở trên trời, cha xứ vẫn nói như vậy - anh gửi đến bà sự động viên và lời chúc phúc.

Anh từng khao khát học hành; nếu ở một thời đại khác và một nơi khác, anh có thể vào đại học, nghiên cứu một môn khoa học với tư cách là nhà khoa học và có thể trở thành một nhà nghiên cứu danh tiếng, nhưng anh đã phải xoay xở một mình. Anh học nhanh và học khá. Tuy vậy, ngay từ nhỏ, anh đã đoán rằng niềm đam mê học hành này sẽ chẳng đưa anh đến đâu cả, rằng anh không thể sống với các nghề mà những người anh của anh nói tới, và rằng - tệ hơn nữa - chắc chắn trên thế giới này sẽ không có người nào hiểu anh. Và thực tế, anh từng là một đứa trẻ cô độc, đứa trẻ thường đứng ở góc sân trong mỗi giờ ra chơi và để những đứa trẻ khác bắt nạt. Hồi ấy, mọi người chưa gọi anh là Người Da Đỏ mà gọi là Chim Gousarde, một giống chim sống vào ban đêm, nặng nề và vụng về, vẫn thường thu mình trên nóc các mái nhà lúc rạng đông, quá sợ sệt không dám bay về tổ, và bọn trẻ con khu phố vẫn lấy súng cao su bắn chỉ vì niềm vui đơn giản là nhìn thấy con chim rơi xuống từ nóc nhà.

Thế là đã hơn mười lăm năm kể từ buổi sáng anh ra đi, không nói lời tạm biệt, thậm chí là không hề có suy nghĩ nói lời tạm biệt. Dần dần, mọi người quen với việc nhìn thấy anh trên cao và thường gọi anh vào ngày chủ nhật hay trong các dịp nghỉ để thay các viên ngói bị vỡ, thay bóng đèn cây, hun khói tổ ong bầu, treo các quả bóng lên cây trong dịp lễ mừng sinh nhật, và tất nhiên - bởi vì nó là như thế trên đất nước này - họ trả tiền cho anh theo mức mà họ cảm thấy phải trả anh. Anh không bao giờ kì kèo mặc cả, nhưng không bao giờ có cảm giác bị ăn trộm. Bố mẹ không ngăn cản anh, với hy vọng cuối cùng anh cũng học một nghề nào đấy và những mơ mộng hão huyền từ thời thơ trẻ của anh chấm dứt. Họ tưởng như thế sẽ neo giữ anh lại với thực tế, trong khi mỗi ngày anh lại đi xa hơn khi hiểu rằng cái gu trên cao là một món quà giúp anh không bao giờ chết vì đói. Anh để dành tiền kiếm được, cất vào một chiếc túi da nhỏ vẫn đeo trên cổ và không bao giờ rời xa nó, ngay cả khi ngủ. Một hôm, một người chủ trang trại của làng bên cạnh nhờ anh sửa mái nhà, và khi công việc hoàn thành, anh tiếp tục con đường của mình, hết sức nhẹ nhàng đơn giản, thậm chí không có ý định quay trở về. Số tiền tích cóp được cho phép anh sống trong vài tháng, và vài tháng là đủ để anh tạo được tiếng tốt và tên tuổi của anh được truyền từ công trình này sang công trình khác.

Anh không thật cao lắm, dù tay chân dài và đầy cơ bắp, khuôn mặt anh vẫn còn rất trẻ con. Anh hiếm khi cười và quá ít nói khiến người ta đôi khi nghĩ anh hơi đơn giản, nhưng những tay đốc công chỉ cần nhìn thấy anh di chuyển trên giàn giáo là đủ, họ muốn thuê anh ngay lập tức. Đôi bàn tay anh khỏe, mảnh và khéo léo, và anh không bao giờ thiếu việc.

Khi anh đến một thành phố mới để nhận công việc mới, thì đó là vào buổi sáng sớm hoặc lúc tối trời, mùa đông hoặc mùa xuân; anh cần chút thời gian để thích nghi, để xua đuổi sự mệt mỏi của nhiều tiếng đồng hồ di chuyển. Anh xuống khỏi tàu, mang theo túi và hộp cáctông, ra khỏi ga và đi không chủ định. Luôn có một bà già mất ngủ, với nắm hạt trên tay, đi tìm những con chim câu vẫn còn ngủ trên các mái nhà, những người thợ làm ca đêm xanh xao vì không mấy khi nhìn thấy ánh sáng ban ngày, những người phụ nữ đã đứng tuổi hoặc còn rất trẻ dắt chó đi dạo; anh hỏi họ về tên của một khách sạn và - sau khi đánh thức người tiếp tân - anh cởi bỏ giày, quần dài và áo sơmi, và trong bộ đồ quần lót áo cộc, anh nằm đánh một giấc quên trời đất.

 

Nguồn: truyen8.mobi/t86422-em-con-muon-chung-nao-anh-con-nho-chuong-10.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận