Bão Cát Chương 15


Chương 15
Ngày 4 tháng 12, 12 giờ 18 phút trưa Đỉnh Dhofar

Safia tỉnh dậy sau một giấc ngủ chập chờn. Nàng duỗi hai tay, nỗi sợ hãi như xuyên suốt người nàng trong khi vết thương đau nhói ở vai.

- Hãy bình tĩnh đi, người chị. - Có ai đó nói gần bên tai nàng. - Tôi sẽ giúp chị.

Xung quanh mọi thứ như xoay tròn, màn đêm đen sẫm. Nàng được đặt tựa lưng vào con lạc đà, đang bỏm bem nhai lại một cách tự tin. Một bóng người đàn bà hiện ra rõ dần bên cạnh nàng, một cánh tay đỡ lấy vai dựng nàng ngồi dậy.

- Đây là đâu thế này... - Nàng lắp bắp, nhưng đôi môi hình như dính chặt với nhau. Nàng cố tìm kiếm đôi chân của mình nhưng không thể. Ký ức dần trở lại. Vụ bắn nhau ở khu mộ. Tiếng súng vẫn như còn nổ đanh trong đầu nàng. Hàng chuỗi những hình ảnh. Một khuôn mặt. Painter. Nàng rùng mình trong vòng tay của người đàn bà. Điều gì đã xảy ra? Mình đang ở đâu thế này?

 

Cuối cùng thì nàng cũng cố gượng đứng dậy được dù phải tựa vào con lạc đà. Safia nhận thấy bên vai bị thương của nàng đã được băng bó lại, quấn tạm vào để khỏi chảy máu tiếp nữa. Mỗi khi nhấc lên cánh tay lại đau nhói.

Người phụ nữ bên cạnh nàng, với cái bóng hắt lên trong màn đêm, hình như chính là người đã cứu nàng, chỉ có điều giờ đây đã khoác lên người một cái áo choàng sa mạc.

- Cứu trợ đã tới! - Một người khác thì thầm.

- Chị là ai? - Nàng cố thều thào, bỗng nhiên nhận ra cái lạnh của ban đêm. Nàng đang ở trong một cái hang trong rừng. Mưa đã dứt nhưng những giọt nước mưa vẫn rơi tí tách từ tán lá trên đầu. Những cây chà và và cây me nhô lên quanh nàng. Những bụi cây nhài mọc chằng chịt tỏa hương khắp nơi.

Người phụ nữ vẫn im lặng. Chị ta chỉ tay.

Một ánh đèn xuyên qua khu rừng phía trước tới những bụi cây leo. Có ai đó đang tới, cầm một ngọn đuốc.

Safia rất muốn chạy đi nhưng cơ thể nàng dường như quá yếu để làm điều đó. Cánh tay vòng qua vai nàng giật lên như thể nghe được nhịp đập của trái tim nàng nhưng nó không có vẻ gì giống như chị ta định giữ người bị bắt mà chỉ là trấn an.

Trong giây lát, đôi mắt của Safia đã quen với bóng tối để nhận ra rằng khu rừng ngay phía trước nàng phủ kín một mỏm đá bằng các loại cây leo và bụi cây nhỏ. Những kiểu hang động như vậy đầy rẫy trong vùng núi Dhofar, được tạo nên từ những trận mưa xuyên qua đá vôi.

Khi ánh sáng vào tới cửa hang, Safia phát hiện thêm ba bóng người nữa: một bà cụ, một đứa trẻ khoảng 12 tuổi và một người phụ nữ trẻ nữa, chắc là chị em sinh đôi với người đang ngồi cạnh nàng. Tất cả đều mặc áo choàng chống cát sa mạc, mũ lật ngược về phía sau.

 

Cạnh đó, họ đều có một thứ trang sức duy nhất: một hình săm màu đỏ sẫm ở đuôi mắt trái. Một giọt nước mắt.

Ngay cả đứa trẻ cầm ngọn đèn bão.

- Cô ta đã ngất đi. - Người đàn bà bên cạnh nàng nói.

- Đã về đến nhà rồi. - Bà cụ nói, tựa người trên một cây gậy. Tóc bà cụ đã bạc, buộc thành túm; khuôn mặt dù có nhiều vết nhăn nhưng nhìn vẫn rất linh hoạt.

Nàng cảm thấy rất khó có thể nhìn thẳng vào những khuôn mặt đó nhưng không thể nào quay đi được.

- Chào mừng con! - Bà cụ nói bằng tiếng Anh, bước sang một bên.

Safia được người phụ nữ dìu đi qua lối vào. Sau khi lọt qua cửa, đứa bé giơ ngọn đèn lên cao còn bà cụ vẫn đi sau, tay cầm ba toong dò dẫm. Người đàn bà thứ ba rời căn hầm bước về phía con lạc đà.

Safia được dìu về phía trước.

Chả ai nói câu gì. Khi đi được vài bước, Safia, quá sốt ruột nên không thể kìm được.

- Các vị là ai vậy? Các người muốn gì ở tôi? - Giọng nàng nghe như hờn dỗi ngay cả đối với mình.

- Hãy yên tâm đi. - Bà cụ nói thì thào bên tai nàng. - Con an toàn rồi.

Vào lúc này thôi, Safia để ý thấy lưỡi gươm dài người đàn bà vừa rời căn hầm đeo ở thắt lưng.

- Tất cả những câu hỏi sẽ được Hodjia của chúng ta trả


lời con.

Safia giật mình. Hodjia là người thủ lĩnh của bộ lạc, thường là phụ nữ. Họ là người giữ gìn mọi thông tin, người chữa bệnh và thực hiện các phép màu. Những người này là ai nhỉ? Trong khi đi tiếp, nàng vẫn thấy phảng phất mùi hương nhài, làm cho đầu óc nàng bình tĩnh trở lại, gợi cho nàng nhớ đến gia đình, đến mẹ và sự an toàn.

 

Có tiếng động phía sau nàng. Safia liếc về phía sau. Người đàn bà thứ ba đã trở lại. Cô ta xách theo hai cái bọc, lôi ra từ chỗ con lạc đà. Một tay cô cầm cái va li vỏ bạc xây xước có chứa quả tim bằng sắt còn trên vai cô ta là ngọn giáo bằng sắt, trên đó có pho tượng bán thân của quận chúaSheba.

Họ đã lấy được hai cổ vật từ chỗ Cassandra.

Tim nàng đập thình thịch, những viễn ảnh như hiện ra.

Liệu có phải họ là những kẻ cắp không? Nàng đã được cứu thoát hay là lại bị bắt cóc lần nữa?

Đường hầm trải dài trước mặt, chạy sâu vào trong núi. Họ đã qua nhiều ngóc ngách. Nàng nhanh chóng nhận ra khó có thể nhớ hết đường. Không biết họ dẫn nàng đi đâu nhỉ?

Cuối cùng thì không khí cũng có vẻ trong lành hơn và lại càng đậm thêm mùi hương nhài. Đoạn đường hầm sáng dần phía trước mặt. Nàng được dẫn lên trước. Một ngọn gió thổi ùa vào đường hầm.

Sau khi đi qua một đoạn đường vòng, họ tới một cái
hang rộng.

Safia bước vào đó.

Không, không phải là một cái hang mà là một cái vòm rộng của một nhà hát lộ thiên, mái của nó lơ lửng trên đầu có lỗ thông hơi. Nước chảy qua cái lỗ đó làm thành một cái thác đổ vào một cái ao nhỏ phía dưới. Năm ngọn lửa trại nhỏ vòng quanh vũng nước như năm cánh sao, soi rọi vào những bụi cây leo rủ xuống từ vách đá, có cây chạm vào đáy hang.

Safia đã nhận ra loại hình địa chất nơi đây. Đó là một trong hằng hà sa số các vũng lõm chi chít tại khu vực. Một vài hang có chiều sâu lớn nhất ở Oman.

Nàng há hốc mồm.

Thêm nhiều bóng người khoác áo choàng chống bụi cát sa mạc tiến vào hoặc ngồi trong gian này. Phải có tới khoảng ba mươi người. Các khuôn mặt đều hướng về phía nàng khi họ bước vào. Cái hang động được chiếu sáng này làm nàng nhớ lại cái hang trong câu chuyển kể về Ali Baba và bốn mươi tên cướp.

Chỉ có điều ở đây, bốn mươi người đó lại là phụ nữ, thuộc đủ các lứa tuổi.

Safia loạng choạng bước vào hang, bỗng nhiên thấy như muốn xỉu đi sau chặng đường, máu chảy loang xuống cánh tay, toàn thân run lên.

Một bóng người nhô lên từ chỗ đám lửa trại.

- Safia đấy à?

Nàng cố nhìn vào người nói. Người phụ nữ ăn mặc chẳng khác gì những người kia. Safia không thể hình dung vì sao cô ta lại có mặt ở đây.

- Kara phải không?

 

 

1 giờ 2 phút sáng

Căn cứ Thumrait, Oman

 

Cassandra cúi sát để nhìn vào tấm bảng trong phòng viên đại úy. Sử dụng bản đồ vệ tinh của khu vực này, ả đã có thể tái tạo lại tấm bản đồ của Safia. Với bút đánh dấu màu xanh lơ, ả đã vẽ một đường từ ngôi mộ ở Salalah tới ngôi mộ trên núi và vạch một đường bằng bút đỏ từ ngôi mộ của Job tới khu vực sa mạc. Sau đó, ả khoanh lại mục tiêu của mình bằng màu đỏ, vị trí của thành phố bị mất tích.

Vị trí hiện nay của ả là tại căn cứ Thumrait, chỉ cách đó chừng 30 dặm.

- Vậy các anh có thể chuyển trang thiết bị hậu cần tới trong bao lâu? - Ả hỏi.

 

Viên đại úy trẻ liếm môi. Anh ta là chỉ huy của khu vực kho Harvest Falcon, người cung cấp trang thiết bị quân sự cho quân đội Mỹ ở cả khu vực này. Anh ta cầm một cái bảng rồi lấy bút bi chỉ vào đó.

- Lều trại, hầm trú, thiết bị, khẩu phần ăn, nhiên liệu, nước, thuốc men và máy phát điện đã được chất lên những chiếc trực thăng rồi. Các vị sẽ được cung cấp tại chỗ vào lúc 7 giờ như đã được chỉ thị.

Ả gật đầu.

Anh ta vẫn chau mày khi nghiên cứu vị trí triển khai.

- Nơi đây là chính giữa sa mạc. Những người tỵ nạn vẫn thường xuyên trốn vào căn cứ không quân. Tôi không hiểu đặt một trại tiền phương ở đó có tác dụng gì không.

Một luồng gió thổi ào qua mái nhà.

- Thưa đại úy Garrison, mong các vị cứ làm theo lệnh.

- Vâng, thưa quý bà. - Nhưng cặp mắt anh ta có vẻ không yên tâm lắm, nhất là khi nhìn ra cửa sổ tới chỗ khoảng một trăm người đang loăng quăng đi lại, kiểm tra vũ khí, mặc quần áo sa mạc không có phù hiệu gì.

Cassandra cứ để mặc anh ta nghi ngờ khi ả bước ra phía cửa. Viên đại úy đã nhận được lệnh qua một loạt các kênh chỉ huy từWashington. Anh ta có nhiệm vụ phải giúp đỡ ả trang bị cho đội hình của mình. Bộ chỉ huy của Hiệp hội đã đạo diễn toàn bộ câu chuyện. Nhóm của Cassandra có trách nhiệm tìm kiếm, giúp đỡ những người dân tỵ nạn chạy trốn khỏi cơn bão cát và cứu trợ bất cứ ai trong khi bão đổ bộ vào. Họ có 5 xe ô tô địa hình với bánh xe cỡ lớn, một xe kéo loại 18 tấn, hai chiếc trực thăng vận tải và 6 xe mô tô cá nhân có thể tháo dỡ ra từ những chiếc xe tải 4 bánh mui trần. Nhóm đổ bộ sẽ rời đây khoảng nửa giờ nữa. Cô ả sẽ tháp tùng họ.

 

Bước ra khỏi sở chỉ huy khu kho Harvest Falcon, Cassandra kiểm tra đồng hồ. Cơn bão sẽ đổ vào khu vực này trong 8 giờ nữa. Các báo cáo cho biết gió sẽ mạnh lên tới 80 dặm/ giờ. Lúc này gió đã bắt đầu thổi mạnh ở những khu vực núi tiếp giáp với sa mạc.

Và họ đang đi thẳng vào trung tâm cơn bão. Họ không còn sự lựa chọn nào khác. Mệnh lệnh phát ra từ sở chỉ huy của Hiệp hội rằng nó có thể tự phá hủy trước khi bị phát hiện. Điều này không thể xảy ra được. Thời gian biểu đòi hỏi phải gấp gáp.

Cassandra nhìn về sân bay tối om. Ả nhìn thấy một chiếc máy bay tiếp dầu của Anh loại VC10 vừa tiếp đất ở chỗ xa, được chiếu sáng bởi các loại đèn dẫn đường. Hôm qua, bộ tư lệnh Hiệp hội đã đổ vào đây thêm người và thiết bị. Bộ trưởng đã đích thân liên hệ với ả sau trận đấu súng hôm qua. Thật may là ả đã biết được vị trí của thành phố mất tích trước khi để xổng mất Safia. Dù sao thì ông ta cũng rất thỏa mãn với việc điều hành
của ả.

Nhưng về phần mình thì ả không hài lòng chút nào.

Ả hình dung ra Painter đang ngồi xổm ở khu phế tích và ngôi mộ. Cặp mắt sắc sảo của anh tập trung cao độ và cách anh di chuyển rất nhanh, xoạc một chân vớ lấy khẩu súng. Ả có thể bắn vào gáy anh khi có cơ hội nhưng vì sợ bắn trúng vào Safia nên đã để cho cô ta chạy mất. Tuy nhiên thì Cassandra cũng không bắn. Đặc biệt khi anh nhao tới thì ả vẫn lưỡng lự mất vài giây, lui người lại thay vì nhao lên phía trước.

Ả nắm chặt bàn tay lại. Ả đã lưỡng lự, lúc này đang thầm tự trách mình cũng như Painter. Nhất định lần sau không thể mắc phải lỗi như vậy nữa. Ả nhìn một lượt qua khu vực sân bay.

Liệu anh ta có tới không nhỉ?

Ả đã nhìn thấy anh giật lấy tấm bản đồ của mình trong khi chạy đi cùng với một chiếc xe của chính ả. Bọn lính đã tìm thấy nó được vứt vào một nơi sâu trong rừng, cách đường cái chừng vài dặm sau khi tháo gỡ hết thiết bị.

Nhưng Painter lại có tấm bản đồ. Chắc chắn anh ta sẽ
tới đó.

Nhưng, không giống như lần trước, ả đã sẵn sàng tiếp anh ta. Lúc này ả có đầy đủ người và hỏa lực để chặn đứng cả một đạo quân. Hãy để anh ta cố thử xem.

Một bóng người hiện ra từ một khu nhà nhỏ gần chỗ đỗ xe, nơi được dùng làm sở chỉ huy tạm thời của ả. John Kane sải bước về phía ả, chân trái của gã vẫn còn cứng nhắc. Gã nhăn nhó khi bước tới bên ả. Phần mặt trái của gã nhằng nhịt mũi chỉ khâu, làm cho khuôn mặt gã méo xệch. Dưới lớp băng keo là những vết cào trên mặt và cổ, thấm đẫm i-ốt. Cặp mắt gã ánh lên sáng hơn hẳn mỗi khi dưới ánh sáng sođium. Một chút ảnh hưởng của moóc-phin.

Nhưng gã kiên quyết không chịu ở lại phía sau.

- Việc dọn dẹp đã hoàn tất cách đây một giờ. - Gã nói, hướng về phía micro. - Mọi dấu vết phải được xóa sạch.

Ả gật đầu. Tất cả những dấu vết liên quan đến vụ bắn nhau ở ngôi mộ đã được xóa sạch, từ xác chết, vũ khí, thậm chí cả những mảnh máy bay trực thăng rơi.

- Thế có nghe thấy gì về nhóm của Crowe không?

- Chúng biến mất vào trong núi, tản ra. Có nhiều đoạn đường nhánh và đường cho lạc đà ở khắp khu vực núi. Tại tất cả thung lũng đều có những khu rừng rậm. Hắn và những con chuột cát đã cúp đuôi lủi vào nơi ẩn náu.

Cassandra cũng đã nghĩ như vậy. Sau trận giao tranh, nhóm của ả không đủ người để tổ chức truy lùng. Chúng phải lo chăm sóc những kẻ bị thương rồi dọn dẹp khu vực đó trước khi nhà chức trách địa phương sờ đến tiếp sau cuộc giao tranh dữ dội. Ả phải tổ chức sơ tán bằng cầu hàng không đầu tiên, sau khi điện cho bộ chỉ huy Hiệp hội, cố giảm thiểu tình trạng hỗn loạn, đồng thời tâng bốc việc phát hiện ra địa điểm thực sự của Ubar.

Thông tin đó đã cứu sống ả.

Và ả biết rằng mình đã mắc nợ ai về điều đó.

- Tôi đã cử người đi tuần tiễu trong núi. Vẫn không thấy dấu vết gì của cô ta cả.

Cassandra chau mày. Con chíp ả gắn lên người cô ta có phạm vi 10 dặm. Vì sao mà họ lại không nhận tín hiệu từ đó nhỉ. Có thể trong núi thì tín hiệu bị nhiễu, hoặc cũng có thể vì cơn bão. Dù thế nào đi chăng nữa nếu cô ta thò mặt ra thì thế nào cũng bị phát hiện.

Cassandra hình dung mẩu C4 gắp vào con chíp. Safia có thể trốn thoát nhưng cô ta đã cầm chắc cái chết rồi...

- Thôi chúng ta đi nào. - Ả nói.

1 giờ 32 phút sáng

Dãy núi Dhofar

 

- Safia là một cô gái tuyệt vời. - Omaha lẩm bẩm.

Painter cựa quậy từ chỗ của mình. Thế anh ta đã phát hiện được gì? Quá ống kính nhìn đêm, anh đã theo dõi con đường đất. Chiếc xe bán tải đậu nép vào một gốc cây.

Omaha và ba người khác tụ tập ở phía sau xe; anh ta và Danny cắm đầu nhìn xuống tấm bản đồ anh vừa lấy được ở chỗ khu mộ.

Ngồi ngay bên cạnh họ, Coral đang kiểm kê đám thiết bị lấy được từ trên chiếc xe Mitsubishi của tụi Cassandra.

Trên đoạn đường dốc từ ngôi mộ xuống, họ đã gặp Clay và Danny đang hoảng hốt sau khi Kara mất tích. Họ đã gọi cô liên tục nhưng không thấy có tiếng trả lời. Và thế là với tình cảnh bị Cassandra áp sát phía sau và trực thăng quần thảo trên trời, họ không thể chờ đợi được lâu hơn nữa. Trong khi Painter và Omaha đi tìm kiếm Kara, những người khác vội vã chuyển đám thiết bị từ chiếc xe đánh cắp sang xe họ rồi lái nó lên đoạn đầu dốc. Painter lo rằng Cassandra sẽ lại dùng thiết bị định vị để theo dõi họ giống hệt như anh đã làm.

Tuy nhiên, chiếc xe bán tải này thì ả lại không biết tí gì. Một thuận lợi nho nhỏ.

Vì vậy họ xuất phát, hy vọng là Kara sẽ tạm ẩn nấp nơi
nào đó.

Painter đi đi lại lại trên con đường, cảm thấy không yên tâm lắm với quyết định của mình. Họ chả tìm thấy ai cả. Thế thì Kara đi đâu nhỉ? Liệu có phải là cô ta bị đói thuốc không? Anh hít một hơi thật dài. Có lẽ điều đó tốt hơn. Tránh xa họ, biết đâu lại còn có cơ hội sống sót. Tuy nhiên, anh vẫn thấy băn khoăn.

Ở bên kia đường, Barak hút chung một điếu thuốc với Clay, hai người quả là một cặp tương phản cả về hình thể, tầm vóc, quan niệm triết học nhưng lại chia sẻ niềm vui với khói thuốc. Barak biết chỗ núi này nên đã dẫn họ đi qua nhiều đoạn đường tắt, có thể nguỵ trang được. Họ chạy không đèn và đi thật nhanh nhất với khả năng cho phép, chỉ dừng lại vài chỗ khi có tiếng trực thăng bay tới.

Như vậy là chỉ còn 6 người bọn họ: anh và Coral, Omaha và Danny, Barak và Clay. Số phận của đại úy al-Haffi và Sharif vẫn còn chưa biết ra sao, bay đi theo gió với đám người bộ lạc Bait Kathir. Họ chỉ có thể hy vọng điều may mắn nhất mà thôi.

Sau ba giờ lái xe như ma đuổi, họ phải dừng lại nghỉ, tập họp lại xem sẽ làm gì tiếp theo. Tất cả những gì họ phải làm là tới những chỗ đánh dấu trên bản đồ.

Trở lại chiếc xe, Omaha đứng thẳng người lên rồi nói.

- Cô ấy đã đánh lừa ả chó cái.

 

Painter bước lại phía mọi người rồi hỏi.

- Anh đang nói cái gì vậy?

- Anh hãy lại đây mà xem. - Omaha vẫy tay.

Painter bước tới. Ít nhất thái độ thù địch của anh ta đối với anh cũng bớt đi. Dọc đường, Painter đã kể lại câu chuyện về những con báo, trận giao chiến và sự can thiệp của người đàn bà kỳ lạ. Cuối cùng thì anh ta cũng cảm thấy tạm yên với sự thật là chừng nào Safia thoát khỏi tay của Cassandra thì cũng đã là may mắn rồi.

Omaha chỉ tay lên bản đồ.

- Hãy nhìn những đường vạch này. Con đường màu xanh rõ ràng dẫn từ ngôi mộ ở Salalah tới đây, trên dãy núi này. Safia chắc phải tìm thấy dấu vết gì tại ngôi mộ đầu tiên để dẫn tới cái thứ hai.

Painter gật đầu.

- Được rồi, thế còn đường vạch màu đỏ thì sao?

- Safia cũng tìm thấy một dấu vết gì đó ở ngôi mộ của
Job nữa.

- Cái cột bằng kim loại có dính bức tượng bán thân trên đó phải không?

- Giả sử là như vậy. Bây giờ thì nó không còn là vấn đề nữa rồi. Hãy nhìn đây xem. Cô ấy đã đánh dấu một vòng tròn bằng đường vẽ màu đỏ. Bên ngoài sa mạc. Giống như đây là nơi chúng ta sẽ đi tiếp.

- Vị trí của Ubar. - Painter cảm thấy hụt hẫng. - Nếu như Cassandra đã biết được nó ở đâu...

- Không, đó không phải là vị trí. - Danny nói.

Omaha gật đầu.

- Tôi đã đo rồi. Vòng tròn này đánh dấu 69 dặm từ ngôi mộ của Job theo đường vẽ này.

 

Painter đã kể lại cặn kẽ cho họ mọi chi tiết, kể cả việc nghe lỏm gã cao kều gọi to lên con số 69, sau khi đo đạc cái gì đó trên cây cọc.

- Vậy là nó khớp với con số tôi nghe thấy. - Anh nói.

- Nhưng họ lại hình dung ra là dặm, - Omaha nói. - dặm theo kiểu chúng ta.

- Vậy là?

Omaha nhìn anh như thể điều đó rất rõ ràng.

- Nếu như cổ vật được tìm thấy ở mộ Job cũng có niên đại như quả tim bằng sắt và như vậy thì tại sao nó lại không phải là thế? Rồi thì nó phải trở về từ khoảng 200 năm trước Công nguyên.

- Ôkê. - Painter nói, chấp nhận thực tế đó.

- Như vậy là một dặm theo định nghĩa của người La Mã. Một dặm được ước tính vào khoảng 5.000 fit La Mã và 1 fit của La Mã thì chỉ vào khoảng 11,5 inch. Safia chắc phải biết điều đó! Cô ta để cho ả kia tin rằng đó là dặm theo kiểu hiện đại. Như vậy là cô ta đưa con chó cái vào vòng đua luẩn quẩn rồi.

- Thế thì khoảng cách thực sự là bao xa? - Painter hỏi, dịch gần hơn đến tấm bản đồ.

Đứng bên cạnh anh, Omaha đang nhấm ngón tay trỏ, rõ ràng đang tính toán trong đầu. Sau một hồi, anh ta nói:

- 69 dặm La Mã tương đương với 63 dặm hiện nay.

- Anh ấy nói đúng đấy. - Coral nói. Cô cũng đã tự nhẩm tính.

Vậy là Safia đã đẩy Cassandra cách xa vị trí thật sự tới 6 dặm, Painter chau mày, cũng chẳng xa lắm.

- Trong sa mạc thì 6 dặm cũng phải là 600. - Omaha bác lại.

Anh cũng chả buồn bác bỏ sự tự hào của anh ta với Safia, nhưng anh biết trò này khó có thể lừa được Cassandra lâu. Ngay khi cô ả phát hiện ra chẳng có gì ở chỗ đó thì ả sẽ lập tức hỏi lại ngay. Một ai đó sẽ giải mã điều bí mật. Painter dự đoán chắc là trò đánh đố của Safia có thể cho họ có thêm một hoặc hai ngày là cùng.

- Vậy vị trí đích thực của nó trên bản đồ là ở chỗ nào?
Anh hỏi.

Omaha đập tay vào trán, rất hứng khởi.

- Chúng ta thử tìm xem.

Anh ta nhanh chóng điều chỉnh lại mấy thứ dụng cụ đo đạc rồi tính toán lại. Một cái chau mày làm khuôn mặt nhăn nhó.

- Thật chẳng có ý nghĩa gì cả. - Anh ta cắm một cây kim trên bản đồ.

Anh ta lắc đầu, giọng rất ngạc nhiên.

- Đúng là một trò chơi trốn đuổi mà thôi.

- Anh nói vậy là có ý gì?

Omaha tiếp tục chau mày nhìn bản đồ như thể nó thật đáng trách. Danny trả lời:

- Shisur là nơi mà những phế tích của Ubar được phát hiện đầu tiên. Từ năm 1992 do Nicolas Clapp và những người khác. - Cậu ta liếc nhìn Painter. - Ở đó chẳng có quái gì cả. Tất cả những cái này chạy quanh chỉ dẫn đến một nơi đã được phát hiện và đào bới rồi.

Painter không thể chấp nhận điều đó.

- Chắc là phải có cái gì đó.

Omaha đập đập nắm tay lên bản đồ.

- Chính tôi đã tới chỗ đó rồi. Đó là một ngõ cụt. Tất cả sự nguy hiểm và tắm máu... chả mang lại điều gì cả.

- Chắc phải có điều gì đó khiến mọi người bỏ sót. - Painter khăng khăng. - Mọi người nghĩ rằng hai ngôi mộ mà chúng ta đã tới đã được kiểm tra rất kỹ rồi nhưng chỉ trong vài ngày lại có những phát hiện mới.

- Những phát hiện của Safia. - Omaha chua chát nói.

 

Không ai nói thêm câu nào.

Painter tập trung nghĩ về những lời nói của anh ta, rồi dần dần hiểu ra.

- Cô ta sẽ tới đó.

Omaha quay lại phía anh.

- Anh đang nói điều gì vậy?

- Safia. Cô ta đã nói dối Cassandra để ngăn không cho ả tới Ubar. Nhưng giống như chúng ta, cô ta biết những dấu vết đó chỉ về nơi nào.

- Đến Shishur, đến chỗ những phế tích.

- Chính xác là vậy.

Omaha trợn mắt.

- Nhưng chúng ta đã nói là ở đó chẳng có gì cả rồi mà.

- Cũng giống như anh nói. Safia đã phát hiện ra những dấu vết mà không ai đã tìm ra trước đó. Cô ấy nghĩ mình có thể làm điều tương tự như ở Ubar. Cô ấy sẽ tới đó không ngoài lý do gì hơn là giữ được bất cứ thứ gì khỏi bàn tay của Cassandra.

Omaha miễn cưỡng nói:

- Anh nói đúng đó.

- Thế nếu như cô ấy được phép đo? - Coral nói xen vào. - Thế còn người đàn bà đưa cô ấy đi thì sao? Người phụ nữ với con báo đó.

Barak trả lời cô ta, giọng anh ta xem ra hơi bối rối.

- Tôi đã nghe chuyện về những người phụ nữ như vậy, được kể xung quanh các đám lửa trại ở sa mạc. Nhất là trong các bộ lạc ở sa mạc. Những chiến binh của sa mạc. Có phần ma quỷ hơn là xương thịt. Có thể nói chuyện với loài vật. Biến mất theo lệnh.

- Đúng vậy. - Omaha nói.

- Thực ra thì cũng có điều kỳ lạ về người đàn bà đó. - Painter thú nhận. - Và tôi không nghĩ đây là lần đầu tiên chúng ta bắt gặp cô ta.

 

- Anh nói sao vậy?

Painter gật đầu về phía Omaha.

- Những người bắt cóc anh. ỞMuscat. Đó là một người phụ nữ anh đã nhìn thấy ở chợ.

- Gì cơ? Anh cho là cùng một người phụ nữ à?

Painter nhún vai.

- Hoặc có thể trong cùng một nhóm. Có một phe phái khác cũng tham gia vào vụ này. Tôi biết điều đó. Tôi không hiểu đó có phải là những chiến binh như Barak vừa kể không hoặc một nhóm nào đó tìm cách kiếm tiền. Dù gì đi nữa, họ đã đưa Safia đi vì có lý do. Thực tế họ có thể thậm chí cố gắng bắt cóc anh nữa, Omaha ạ, vì tình cảm của Safia đối với anh. Sử dụng anh như một thứ mồi nhử.

- Mồi nhử vì cái gì?

- Để buộc Safia phải giúp họ. Tôi cũng phát hiện ra chiếc va li bạc cũng nằm trên lưng con lạc đà. Vậy tại sao họ lại lấy đi cổ vật nếu không có một lý do gì vững chắc? Mọi thứ đều chỉ về phía Ubar.

Omaha suy nghĩ điều anh nói, gật đầu.

- Vậy thì đó là nơi chúng ta sẽ tới. Sau khi con quỷ cái đó đã bị đánh lạc hướng, chúng ta sẽ xem liệu Safia có xuất hiện không?

- Và chúng ta sẽ tìm kiếm khu vực đó. - Coral nói, chỉ về phía đống thiết bị. - Đây có cả thiết bị ra-đa dò tìm sâu trong lòng đất, nhất là ở sa mạc, chúng ta cũng có một hộp lựu đạn, súng trường và còn cái này tôi chả biết là cái gì nữa.

Cô giơ lên một thứ vũ khí trông giống như một khẩu súng ngắn, phần đuôi loe ra. Qua ánh mắt có thể thấy cô rất muốn biết nó là cái gì.

Mọi người hướng về phía Painter như thể chờ đợi sự đồng ý của anh.

- Tất nhiên chúng ta sẽ đi. - Anh nói.

Omaha vỗ vai anh.

- Thế là cuối cùng chúng ta cũng đồng ý với nhau cái gì đó.

 

 

1 giờ 55 phút sáng

 

Safia ôm ghì lấy Kara.

- Cậu đang làm gì ở đây vậy?

- Mình cũng chả biết nữa. - Kara run rẩy trong vòng tay của nàng. Da của cô hơi ươn ướt.

- Thế còn những người khác thì sao... mình có nhìn thấy Painter, thế còn Omaha, em trai anh ấy...?

- Theo như những gì mình biết thì mọi người ổn cả. Nhưng mình không tham gia vào cuộc giao tranh.

Safia phải ngồi xệp xuống, chân nàng yếu quá, đầu gối mềm như bún. Cái hang dường như đang xoay quanh nàng. Tiếng nước chảy rào rào từ cái thác luồn qua lỗ nhỏ trên mái nghe như những tiếng chuông bạc ngân lên. Những ngọn lửa từ đám lửa trại bập bùng.

Nàng ngồi trên một chiếc chiếu gần đám lửa, nhưng cũng không cảm thấy sức nóng tỏa ra.

Kara cũng ngồi theo nàng.

- Vai của cậu kìa, cậu đang bị chảy máu đấy...

Bị bắn. Safia không biết là nàng đã nói to từ đó hay không.

Ba người phụ nữ nhào tới, tay bê vác khệ nệ. Họ khênh cả một chậu nước tắm bốc hơi nghi ngút, quần áo sạch gấp phẳng phiu và cả một hộp đựng dụng cụ cấp cứu có dấu chữ thập đỏ trên đó. Một người đàn bà đứng tuổi, không phải người đã dẫn họ vào đây, chống gậy bước vào. Bà cụ trông thật già nua, đôi vai rũ xuống, tóc bạc phơ nhưng được chải gọn ghẽ và tết sau gáy. Trên tai có gắn hai viên đá quý, hợp với vết săm hình giọt
nước mắt.

- Hãy nằm xuống, con gái! - Bà cụ ra lệnh. Vẫn bằng tiếng Anh. - Để ta xem con bị thương thế nào.

Safia cũng chả còn đâu hơi sức chống cự nữa nhưng Kara đã canh chừng cho nàng. Cô muốn bảo đảm rằng bạn mình sẽ được bảo vệ nếu thấy cần.

Chiếc áo choàng được cởi bỏ khỏi người Safia. Tấm băng gạc bị dính bẩn đã được thay. Trông giống như nàng vừa bị lột da xong. Safia thở hổn hển, mắt tối sầm.

- Bà đang làm cô ấy đau. - Kara nhắc nhở.

Một trong những người phụ nữ quỳ xuống rồi mở hộp
cấp cứu.

- Tôi sẽ tiêm cho cô ấy một mũi moóc-phin. - Cô ta nói.

- Để ta xem vết thương nào. - Bà cụ cúi xuống, hai bên có người đỡ.

Safia đụng cựa nên đôi vai của nàng trần trụi.

- Phát đạn đi thẳng nhưng nông. May mắn là không phải phẫu thuật. Trà đường sẽ làm dịu vết thương của cô ấy cùng với hai viên Tylenol. Đeo cánh tay lên chỗ tay lành và chườm.

- Thế vết thương làm sao. - Người phụ nữ kia hỏi.

- Chúng ta sẽ sát trùng rồi băng lại, quàng trên vai.

- Vâng ạ.

Safia được đỡ ngồi dậy. Người đàn bà thứ ba rót một tách trà nóng rồi đưa cho Kara.

- Hãy giúp cô ấy uống. Nó sẽ giúp có thêm sức khỏe.

Kara vâng lời. Người đàn bà cũng rót một cốc chè nóng đưa cho Kara.

- Cô cũng nên uống đi. - Bà cụ nói với Kara. - Để cho đầu óc tỉnh táo.

- Tôi chả biết liệu có khỏe lên không.

 

- Ở đây, sự hồ nghi không giúp gì cho cô đâu.

Kara nhấm nháp ngụm chè, mặt nhăn lại rồi đưa cho Safia.

- Cậu nên uống đi, trông cậu tệ quá.

Safia khẽ nhấp môi. Chất nước trà ấm chảy vào cái bụng lạnh tanh của nàng làm ấm hẳn người. Nàng uống thêm ngụm nữa. Hai viên thuốc đã được đặt ở trước mặt.

- Để giảm đau. - Cô gái trẻ nhất trong số ba người thì thào. Tất cả họ trông giống như chị em, chỉ chênh nhau ít tuổi.

- Hãy uống đi Safia! - Kara giục. - Không thì mình sẽ
uống đấy.

Safia há miệng, nuốt chỗ thuốc vào cùng với ít trà nóng.

- Giờ thì nằm xuống để cho ta chữa trị vết thương. - Bà
cụ nói.

Safia nằm vật xuống chỗ chăn, cảm thấy người nóng bừng.

Bà cụ chậm rãi ngồi xuống bên cạnh. Mặc dù tuổi cao nhưng cử động của cụ vẫn còn nhanh nhẹn. Bà cụ đặt cây gậy chống ở trên đầu gối.

- Hãy nghỉ ngơi đi, con gái! - Bà cụ đặt một bàn tay lên trên tay của nàng.

Một cảm giác dễ chịu dâng lên trong người làm nàng cảm thấy lâng lâng. Safia ngửi thấy mùi hương nhài trong hang.

- Cụ là ai vậy? - Safia hỏi.

- Ta là mẹ con, con gái ạ.

Safia rùng mình, cảm thấy bị xúc phạm. Mẹ nàng đã chết. Người đàn bà này cũng rất già. Chắc bà cụ chỉ an ủi. Trước đó, cụ có thể mắng, tất cả các hình ảnh như mờ đi. Chỉ còn một vài từ theo đuổi nàng.

- Tất cả chúng ta. Chúng ta đều là mẹ con.

 

 

 


2 giờ 32 phút sáng

 

Kara nhìn nhóm phụ nữ chăm sóc Safia khi bạn cô lăn trên đám chăn. Một mũi kim được chọc vào ven tay phải cô rồi nối với dây dẫn truyền huyết thanh từ một cái túi do một nữ y tá giơ lên cao. Hai người kia rửa vết thương do đạn bắn vào ở vai nàng. Vết thương nhỏ hơn đồng xu. Một lớp thuốc bột được rắc khắp vết thương rồi bôi cồn i ốt và băng bó lại rất khéo léo.

Safia khẽ đụng cựa nhưng vẫn ngủ li bì.

- Hãy giữ cho tay cô ấy treo lên cao. - Bà cụ già nói, vừa quan sát các động tác của hai người kia. - Khi nào tỉnh dậy cho uống một cốc trà.

Bà cụ với lấy cây gậy rồi đứng lên. Cụ nhìn Kara.

- Nào hãy đi với ta. Để cho các con gái ta chăm sóc em cháu.

- Tôi sẽ không rời xa cô ấy. - Kara ngồi dịch vào Safia.

- Cô ấy sẽ được chăm sóc chu đáo. Hãy đi với ta. Giờ là lúc cháu tìm thấy cái mà cháu vẫn đi tìm.

- Bà nói gì vậy ạ?

- Câu trả lời cho cuộc đời của con. Hãy đến và ở lại. Đối với ta không có vấn đề gì. - Bà cụ bước đi. - Ta không tranh luận với con.

Kara liếc nhìn Safia rồi nhìn sang bà cụ. Những câu trả lời cho cuộc sống của con.

Cô chậm rãi ngồi dậy.

Nếu có chuyện gì xảy ra... nhưng cô không biết là mình đang lo sợ ai. Những y tá xem ra đang chăm sóc bạn cô rất chu đáo.

Với cái lắc đầu, cô bước theo bà cụ.

- Chúng ta đi đâu thế này?

Phớt lờ câu hỏi, bà cụ vẫn bước đi. Họ đi qua chỗ thác nước rỏ xuống và đám lửa trại ở phía sau rồi bước vào một khu vực tối bao quanh cái hang.

 

Kara nhìn xung quanh. Cô không nhớ là mình đã bước vào hang. Cô biết điều đó nhưng như thể cô đang bước vào một đám mây mù dễ chịu, theo sau một bà cụ già bộ tộc ăn mặc giống cô. Sau khi rời chiếc xe, họ đi bộ khoảng một tiếng, qua cánh rừng tối om, tới một cái giếng cổ cạn nước, qua lối vào ở vách núi. Họ đi vòng vèo xuống một bên sườn núi, đi bộ thêm chút nữa. Khi họ tới cái hang ở đây thì cô bị bỏ rơi tại chỗ lửa trại, được nói là hãy chờ, màn sương mù hình như bốc khỏi người cô. Với việc nó bốc hơi, tình trạng đau đầu và buồn nôn trong cô lại trở về giống như một cái chăn nặng trĩu. Cô khó có thể cử động được, chưa nói đến chuyện tìm lối ra khỏi hang. Tất cả những câu hỏi đều không được trả lời.

Mà cô thì có rất nhiều.

Cô nhìn trân trối vào phía sau của bà cụ. Những người đàn bà này là ai nhỉ? Họ muốn gì ở cô và Safia?

Họ đã bước tới một con đường hầm bên bức tường. Một đứa trẻ đứng chờ ở lối vào, cầm một ngọn đèn dầu bằng bạc, giống như cái đèn người ta chà vào để vị thần hiện lên. Một ngọn lửa nhỏ xíu trong đèn. Cô bé chưa đầy 8 tuổi mặc cái áo khoác sa mạc có vẻ như quá rộng với bản thân. Đôi mắt cô mở to nhìn Kara như thể nhìn một sinh vật lạ. Nhưng không hề có sự sợ hãi mà chỉ là tò mò.

Bà cụ gật đầu với đứa bé.

- Thôi đi nào, Yaqut.

Đứa bé quay lại rồi chui vào đường hầm. Yaqut trong tiếng A-rập có nghĩa là Ngọc bích. Đây là lần đầu tiên cô nghe thấy phát âm tên riêng.

Cô nhìn bà cụ đi bên cạnh.

- Thế cụ tên là gì ạ?

Cuối cùng thì bà cụ cũng liếc nhìn cô. Cặp mắt xanh sáng lên dưới ánh đèn mờ mờ.

 

- Ta có rất nhiều tên, nhưng tên thật của ta là Lu’lu. Ta tin rằng trong ngôn ngữ của con có nghĩa là ngọc trai.

Kara gật đầu.

- Như vậy tất cả phụ nữ các người đều được đặt tên theo các loại châu báu.

Không có câu trả lời khi họ tiếp tục đi sau đứa bé trong im lặng, nhưng Kara cảm nhận được sự nhận biết của bà cụ. Theo truyền thống A-rập, những cái tên đẹp chỉ được dành để đặt tên cho một tầng lớp người.

Nô lệ.

Tại sao những người phụ nữ đó lại có những cái tên như thế. Chắc chắn họ tự do hơn hầu hết những người phụ nữ A-rập.

Đứa bé ngoặt sang một căn phòng bằng đá vôi. Thật lạnh, các bức tường ẩm ướt lấp lánh dưới ánh đèn. Một tấm thảm cầu nguyện nằm ở dưới nền hang, trên một thảm rơm. Phía trên đó là một cái bàn thờ thấp bằng đá đen.

Kara cảm thấy lạnh cả sống lưng. Vì sao họ lại đưa cô
tới đây?

Yaqut bước tới bàn thờ, đi vòng ra phía sau rồi cúi đầu bước ra chỗ khác.

Đột nhiên ánh sáng bừng lên đằng sau vách đá. Yaqut đã dùng ngọn đèn dầu của bé để châm một đống củi. Kara ngửi thấy mùi hương và dầu từ gỗ thông, được ướp tẩm để dễ cháy. Dầu cháy rất nhanh để lại mùi trầm hương thoang thoảng.

Khi ngọn lửa chiếu sáng hơn, Kara mới nhận ra sai lầm của mình. Ban thờ tối sẫm không phải làm bằng đá mà là pha lê, giống như một tảng đá đen, chỉ có điều là trong suốt. Ánh lửa bập bùng chiếu qua tảng đá.

- Đến đây nào. - Bà cụ ra lệnh rồi dẫn Kara tới tấm thảm cầu nguyện.

- Hãy quỳ xuống.

 

Kara, quá mệt mỏi vì thiếu ngủ và run rẩy vì cạn kiệt chất kích thích trong người, sụp xuống tấm thảm mềm mại.

Bà cụ đứng sau cô.

- Đây là thứ mà cháu vẫn cố đi tìm kiếm bao lâu nay. - Cụ chỉ cây gậy lên bàn thờ.

Kara nhìn trân trối vào tảng đá trong suốt. Mắt cô mở to khi củi cháy bập bùng trên ban thờ, hắt sáng vào đó.

Không phải là đá... mà là thủy tinh.

Ngọn lửa chiếu sáng cả bên trong, soi rõ phần giữa của tảng thủy tinh. Bên trong, nằm gọn ở đó là một thân hình, rõ ràng là người, đen sẫm đến tận xương, đôi chân vòng lại nhưng đôi tay đang giãy giụa trong cơn đau đớn. Kara đã từng thấy những hình người đau khổ như thế này. Trong đám phế tích ở Pompei. Một thân hình đã hóa đá, chôn sâu dưới tác động của nham thạch nóng bỏng trong vụ núi lửa phun ở Vecusius. Cũng là tư thế như vậy của một cái chết đau đớn.

Nhưng tồi tệ hơn, Kara đã nhận ra vì sao cô lại được dẫn tới đây để nhìn cái này.

Câu trả lời cho cuộc sống của cô.

Cô gục xuống đôi tay trên tấm thảm. Cô đã nhận ra ai đang nằm chính giữa của tảng đá thủy tinh, trong cơn giãy chết.

Một tiếng kêu thoát ra từ miệng, đau nhói mọi thứ trong con người cô, sức mạnh tầm nhìn, hy vọng và ngay cả ý chí để sống đã trở nên trống rỗng.

- Cha ơi...

 

 

3 giờ 12 phút sáng

 

Safia tỉnh dậy trong tiếng nhạc và sự ấm áp. Nàng nằm trên một tấm chăn mềm mại, lúc này tuy đã tỉnh nhưng đầu óc vẫn còn mơ mơ màng màng. Nàng lắng nghe tiếng nhạc vọng lại từ đâu đó. Ánh lửa bập bùng đan trên mái vòm phía trên đầu, xen vào đám dây leo chằng chịt. Tiếng nước chảy róc rách tô điểm thêm trên nền nhạc.

Nàng biết mình ở đâu. Không phải chỉ là bước chầm chậm quay trở về hiện tại mà là sự uể oải, hậu quả của chất codein mà nàng vừa uống. Nàng nghe có những tiếng nói chuyện khe khẽ, thỉnh thoảng lại xen vào tiếng cười và tiếng trẻ đùa nghịch.

Nàng chậm rãi ngồi dậy, bỗng thấy đau nhói ở vai. Nhưng vết thương cũng đỡ hơn trước. Nàng nhìn đồng hồ, biết rằng mình đã ngủ được hơn một giờ đồng hồ nhưng vẫn có cảm giác như thể ngủ đã mấy ngày. Xả hơi và đã ngủ được.

Một cô gái trẻ bước đến phía nàng, quỳ xuống, tay cầm cốc nước nóng.

- Bà cụ muốn chị uống cốc này.

Safia cầm lấy tách trà bằng cánh tay lành. Cánh tay kia vẫn bị buộc trước bụng. Nàng nhâm nhi rồi bỗng nhận ra có sự thiếu vắng của ai đó.

- Kara, bạn tôi đâu rồi?

- Sau khi cô uống xong, tôi sẽ đưa cô đến chỗ bà. Bà đang chờ ở đó cùng với chị của cô.

Safia gật đầu, nàng uống rất nhanh chỗ trà nóng, cảm thấy người ấm áp hẳn rồi đặt cái cốc lên thảm và cố đứng dậy.

Cô gái kia đỡ nàng đứng dậy, nhưng Safia từ chối, cảm thấy có thể đứng vững được.

- Đi lối này.

Safia được dẫn tới phía bên kia của hang rồi lại bước vào một cái đường hầm nữa. Với cây đèn trong tay, người dẫn đường đưa nàng đi qua một loạt đoạn ngóc ngách. Safia hỏi cô gái.

- Tất cả các vị là ai vậy?

 

- Chúng tôi là người bộ tộc Rahim. - Cô gái trả lời cứng nhắc.

Safia dịch ra. Rahim tiếng A-rập có nghĩa là bào thai. Liệu có phải họ là một bộ tộc Bê-đoanh gồm toàn phụ nữ không, Amazone của sa mạc? Nàng ngẫm nghĩ về cái tên. Nó cũng chứa đựng cả vẻ bên trong thần bí của sự tái sinh và trường tồn.

Vậy những người đàn bà này là ai nhỉ?

Phía trước ánh sáng xuất hiện, lấp lánh một cái hang
bên cạnh.

Người tháp tùng dừng lại vài bước rồi ra hiệu cho nàng bước lên tiếp.

Safia bước đi, có cảm giác không dễ chịu lần đầu tiên từ khi thức dậy. Không khí có vẻ nặng hơn, khó thở. Nàng tập trung hít vào rồi thở ra, cố vượt qua cảm giác bồn chồn. Khi nàng bước tới gần hơn, nàng nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào, nức nở và
đau đớn.

Kara...

Safia cố gạt đi nỗi lo sợ của mình, bước vội vào trong hang. Nàng thấy Kara đang nằm sóng soài trên một tấm thảm. Bà cụ đang ngồi bên cạnh cô, vuốt ve an ủi. Cặp mặt xanh của bà cụ nhìn Safia.

Safia lao tới.

- Kara, có chuyện gì vậy?

Kara ngước nhìn lên, cặp mắt sưng húp, má ướt đẫm nước mắt, nghẹn nghào không nói nên lời. Cô chỉ tay về phía tảng đá lớn với ngọn lửa phía sau. Safia nhận ra tảng đá chính là cát bị nung chảy rồi đông kết lại. Nàng cũng đã từng nhìn thấy những tảng đá như vậy ở khu vực sét đánh. Chúng được những người xưa tôn thờ, coi như những báu vật.

Nàng không hiểu gì cho đến khi nhìn thấy thân hình trong thủy tinh.

 

- Ôi, không...

Kara nghẹn ngào.

- Đó là cha tôi...

- Ồ, Kara.

Nước mắt trào ra trên đôi mắt nàng. Nàng quỳ xuống bên cạnh Kara. Reginald Kensington cũng như là một người cha đối với nàng. Nàng hiểu được nỗi đau buồn của bạn, nhưng cũng rất bối rối. Vì sao vậy? Thế nào?

Kara liếc nhìn bà cụ, quá bối rối không nói nên lời.

Bà cụ đập nhẹ vào bàn tay Kara.

- Ta đã giải thích với bạn con rồi. Ngài Kensington không phải là người xa lạ với bộ lạc chúng ta. Câu chuyện về ngài cũng liên quan đến cả hai con. Ngài đã đi vào khu vực sa mạc cấm đúng vào ngày chết. Ngài đã được cảnh báo rồi nhưng lại không nghe theo. Và đó không phải là cơ hội đã đưa ngài tới khu vực này. Ngài đi tìm kiếm Ubar, giống như con gái mình. Ngài biết những vùng cát này gần với trái tim của nó nên không thể đứng xa được.

- Thế điều gì đã xảy ra với ông ấy?

- Để đặt chân lên những vùng cát xung quanh Ubar tức là thách thức sự giận dữ của quyền lực đã được che giấu ở đây hàng nghìn năm rồi. Quyền lực và địa điểm do những người phụ nữ chúng ta nắm giữ. Ông ta đã nghe nói về nơi này nên lập tức bị cám dỗ. Đó chính là 5260 số phận của ông ấy.

Kara ngồi dậy, rõ ràng đã nghe kỹ câu chuyện.

- Thế quyền lực ở đây là gì?

Bà cụ lắc đầu.

- Cái đó chúng ta không biết. Cổng vào Ubar đã khép lại với chúng ta được hai nghìn năm rồi. Cái nằm phía trước những cánh cửa đó đã bị thất lạc hàng đời nay. Chúng ta là những người Rahim, những kẻ bảo vệ cuối cùng của nó. Kiến thức đã được chuyển giao truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác nhưng có hai điều bí mật chưa bao giờ được nhắc đến sau khi Ubar khi phá hủy, không bao giờ được truyền đến chỗ chúng ta bởi quận chúa Sheba. Tấm thảm kịch mà bà đã khóa chặt thành phố cùng với cái chết của bà thật lớn lao, hai bí mật đó cũng mất đi cùng với bà: Ở nơi nào những chìa khóa dẫn vào cổng được cất giấu và quyền lực gì nằm trong lòng sa mạc, tại trái tim
của Ubar.

Mỗi lời nói được thốt ra từ miệng bà cụ lại gợi ra hàng nghìn câu hỏi trong đầu óc Safia. Cánh cửa vào Ubar. Kẻ cuối cùng thuộc những người canh giữ. Trái tim của thành phố mất tích. Những chiếc chìa khóa được cất giấu. Nhưng có vài mối liên hệ đã đến với nàng.

- Những cái chìa khóa. - Nàng lẩm bẩm. - Quả tim bằng sắt.

Bà cụ gật đầu.

- Dẫn đến trái tim của Ubar.

- Và ngọn giáo với bức tượng bán thân của Biliqis, nữ
thần Sheba.

Bà cụ cúi đầu.

- Nàng chính là mẹ của tất cả chúng ta. Người đầu tiên trong dòng dõi hoàng gia ở Ubar. Người nắm giữ chiếc chìa khóa thứ hai.

Safia điểm lại phần lịch sử đã được biết về Ubar. Thực tế là thành phố này đã được phát hiện vào khoảng 900 năm trước Công nguyên, tức là vào thời gian quận chúa Sheba sống. Ubar trở nên phồn vinh cho đến khi nạn sụt cát đã phá hủy nó vào khoảng 300 năm sau Công nguyên. Đó là một thời gian trị vì khá dài. Những người trị vì đã được ghi chép khá kỹ càng.

Safia hỏi về điều này.

- Cháu nghĩ rằng vua Shaddad là người đầu tiên cai trị Ubar, là cháu nhiều đời của Noah. Còn có cả một bộ tộc người
Bê-đoanh, Shahra vẫn được coi là dòng giống của nhà vua
đầu tiên.

Bà cụ lắc đầu.

- Dòng họ Shaddad chỉ là những nhà hành pháp mà thôi. Dòng họ Biliqis mới thực sự là những kẻ cầm quyền, một bí mật với tất cả và chỉ tiết lộ với những ai được tin cậy nhất mà thôi. Ubar đem lại quyền lực cho quận chúa, chọn lựa nàng và cho phép nàng sinh nở theo huyết thống. Một dòng giống vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Safia nhớ lại khuôn mặt trên pho tượng. Những người phụ nữ trẻ ở đây trông giống nó đến lạ lùng. Liệu một sự di truyền như vậy có kéo dài suốt hai nghìn năm không?

Safia lắc đầu, vẻ không tin.

- Thế bà nói rằng bộ lạc của mình có nguồn gốc từ quận chúa Sheba à?

Bà cụ gật đầu.

- Còn hơn thế nữa... hơn nhiều. - Cụ ngước cặp mắt lên. - Chúng ta chính là quận chúa Sheba.

3 giờ 28 phút chiều

Kara cảm thấy mệt mỏi, buồn nôn nhưng không hề từ bỏ. Thực ra từ khi cô tới đây, trong các hang động này, cô đã cảm thấy bớt căng thẳng hơn trước, tình trạng run rẩy đã bớt đi nhiều như thể có điều gì đó chữa trong đầu cô. Nhưng lúc này đây, cô lại thấy mình phải chịu đựng sự đau đớn gấp vạn lần so với khi thiếu những viên amphetamines. Cô cảm thấy bị giáng một đòn đau đớn, thảm hại và bẽ bàng. Tất cả những gì về thành phố bí mật, những quyền lực bí ẩn, dòng giống chả có nghĩa gì với cô cả. Mắt cô vẫn đau đáu nhìn vào những gì còn lại của cha cô, bị đông cứng lại vào lúc giãy chết.

 

Những lời của bà cụ vẫn đọng lại trong óc cô.

Giống như con gái mình, ông đi tìm kiếm Ubar.

Cô nhớ lại hôm ông chết, cuộc đi săn vào ngày sinh thứ 16 của cô. Cô vẫn luôn tự hỏi là vì sao họ đã đi xa suốt một chặng đường dài như vậy để tới khu vực này của sa mạc. Có nhiều chỗ đi săn tốt hơn, lại ở gần Muscat, có thể bay đến từ căn cứ quân sự Thumrait, đi bằng đường bộ sau đó bắt đầu chuyến thám hiểm bằng xe mô tô chạy trên cát. Liệu có phải cha cô đã dùng ngày sinh của cô như một cái cớ để tìm kiếm trong những vùng đất này?

Nỗi tức giận dâng trào lên trong lồng ngực cô, giống như ngọn lửa thiêu chảy chỗ cát kia. Nhưng nó không có tiêu điểm. Cô bực mình với những người phụ nữ đã giữ điều bí mật bao lâu về việc cha cô bỏ mạng khi thực hiện cuộc tìm kiếm chết người, bực bội vì cô đã đi theo vết chân của ông... và ngay cả với Safia, người chưa bao giờ ngăn cản cô, ngay cả khi nó hủy hoại cô ta từ trong ra. Ngọn lửa của sự giận dữ đã thiêu cháy nốt sự ốm yếu của chính cô ta.

Kara ngồi lại rồi quay về phía bà cụ. Cô cắt ngang bài học về lịch sử với Safia, giọng của cô nghe cay đắng.

- Vậy thì tại sao cha cháu lại đi tìm kiếm Ubar?

- Kara. - Safia nói bằng giọng dỗ dành. - Mình nghĩ chúng ta có thể chờ đợi...

- Không. - Sự giận dữ biến thành quyền lực trong giọng nói của cô. - Mình muốn biết bây giờ.

Kara chau mày .

Bà cụ liếc nhìn Kara rồi nhìn Safia.

- Cháu có quyền hỏi. Vì vậy cả hai người đang ở đây lúc này...

Bà cụ nói tiếp.

- Cái gì mà sa mạc lấy đi thì nó cũng trả lại.

 

- Điều đó là thế nào? - Kara dồn.

Bà cụ thở dài.

- Sa mạc đã cướp đi cha con. - Bà vẫy tay với về phía tảng đá gớm ghiếc kia. - Nhưng nó lại cho con một người em. - Bà gật đầu về phía Safia.

- Cô ấy luôn là người bạn thân nhất của cháu. - Mặc dù đang trong cơn giận dữ nhưng giọng nói của cô vẫn mang nặng tình cảm. Sự tin cậy và chiều sâu những lời nói của cô, được cất lên, đã đập vào trái tim đang bị tổn thương của cô nhiều hiệu ứng hơn cô nghĩ. Cô cố gắng gạt bỏ nó nhưng thật khó.

- Cô ấy còn hơn là bạn của con nhiều. Cô là em gái của con cả về phần hồn và phần xác. - Bà cụ giơ cây gậy chỉ về phía tảng đá thủy tinh. - Người nằm kia chính là cha của con và của Safia.

Bà cụ đối mặt với khuôn mặt kinh ngạc của hai người
phụ nữ.

- Các con là chị em.

 

 

3 giờ 33 phút sáng

 

Đầu óc Safia không thể lĩnh hội được những gì bà cụ nói.

- Thật không thể tin được. - Kara nói. - Mẹ con chết khi con sinh ra.

- Các con có cùng bố chứ không phải cùng mẹ. - Bà cụ nói rõ thêm. - Safia được sinh ra từ một người phụ nữ thuộc dòng tộc chúng ta.

Safia lắc đầu. Họ là chị em ruột. Sự yên bình nàng vẫn được hưởng từ lúc tỉnh dậy nay đã bị phá tung. Hàng bao lâu nay, nàng chả biết tí gì về mẹ mình cả, chỉ biết rằng bà bị chết trong một tai nạn xe buýt khi nàng mới 4 tuổi. Không thấy nói điều gì về cha nàng cả. Ngay cả những chi tiết mờ nhạt về thời thơ ấu của nàng trước khi vào trại trẻ mồ côi cũng chưa bao giờ có bóng dáng một người đàn ông, một người bố. Tất cả những gì nàng còn lại của mẹ là cái tên, al-Maaz.

- Hãy bình tĩnh lại, cả hai con. - Bà cụ giơ tay lên, đó là một món quà chứ không phải là lời nguyền.

Những lời nói của bà cụ làm cạn đi tiếng trống đập thình thịch trong lồng ngực Safia nhưng nàng cũng không thể nào quay mặt lại để nhìn Kara, quá xấu hổ, như thể sự có mặt của nàng đã làm hoen ố hình ảnh của ngài Kensington. Đầu óc Safia trở lại ngày được đưa về từ trại mồ côi, một ngày thật kinh khủng và đầy hy vọng. Reginald Kensington đã chọn cô trông số các cô gái nhỏ khác, một đứa trẻ con lai được mang về nhà và đưa vào phòng của mình. Kara và Safia đã ngay lập tức trở nên thân thiết. Liệu họ, ngay cả khi còn bé đã nhận ra mối liên hệ về sự gần gũi, một sự an ủi dễ chịu của gia đình. Tại sao Reginald Kensington không hề nói với họ về mối quan hệ chị em bí mật giữa hai người.

- Nếu như cháu biết được... - Kara thở hổn hển, với tay về phía Safia.

Safia ngước nhìn lên. Nàng không thấy sự trách cứ nào trong mắt người bạn, sự giận dỗi giây phút trước đây đã
biến mất. Tất cả những gì nàng thấy là sự nhẹ nhõm, hy vọng và tình yêu.

- Có thể chúng ta là như vậy... - Nàng lẩm bẩm rồi tựa vào vòng tay của người chị.

- Có thể chúng ta luôn biết được điều đó từ trong sâu thẳm.

Những giọt nước mắt tuôn trào. Và cũng giống như vậy, họ không phải chỉ là bạn bè - họ là một gia đình.

Họ ôm hôn nhau hồi lâu, nhưng những câu hỏi vẫn kéo họ ra xa. Kara nắm lấy bàn tay Safia trong tay mình.

Cuối cùng bà cụ cũng nói.

 

- Câu chuyện chia sẻ của các con trở lại từ việc ngài Kensington phát hiện ra bức tượng ở ngôi mộ của Nabi Imran. Sự phát hiện quan trọng của ngài có một ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta. Pho tượng có niên đại từ thời kỳ xuất hiện của Ubar, được chôn cất ở một ngôi mộ gắn với một phụ nữ của những phép màu.

- Đức bà đồng trinh Mary? - Safia hỏi.

Một cái gật đầu trả lời nàng.

- Là những người giữ gìn, một trong những người của chúng ta phải tiếp cận để kiểm tra cổ vật trong mộ. Người ta cho rằng những chìa khóa dẫn tới cánh cửa vào Ubar sẽ tự lộ ra khi nào thời gian chín muồi. Vì vậy Almaaz được cử đến.

- al-Maaz! - Safia nói, lưu ý phát âm có nhẹ đi một chút.

- Almaaz! - Bà cụ nhắc lại một cách chắc chắn.

Kara nắm chặt tay nàng.

- Tất cả những phụ nữ ở đây đều được đặt tên theo các loại đá quý. Như tên bà cụ là Lu’lu, có nghĩa là ngọc trai.

Đôi mắt nàng mở to.

- Almaaz. Tên của mẹ con là kim cương. Trại mồ côi nghĩ tên riêng của con là al-Maaz. Vậy thì điều gì đã xảy ra với bà?

Bà cụ lắc đầu với cái chau mày.

- Giống như bao nhiêu người đàn bà khác. Mẹ con đã yêu. Trong khi điều tra sự phát hiện của pho tượng, bà cho phép mình quá gần gũi với ngài Kensington... và ngược lại. Cả hai người đã dành hết cho nhau. Và sau một vài tháng, một đứa trẻ đã hình thành trong bụng bà, giống như chuyện xảy ra tự nhiên ở bao nhiêu phụ nữ khác.

Safia ngạc nhiên trước cách lựa chọn lạ lùng đó nhưng không ngắt lời.

- Việc có mang làm mẹ con hoảng hốt. Đối với bất kỳ ai trong chúng ta, việc có mang từ quan hệ xác thịt với đàn ông là tuyệt đối cấm. Bà đã chạy trốn khỏi ngài Kensington. Trở về với chỗ chúng ta. Chúng ta đã chăm sóc cho bà đến khi sinh. Nhưng sau khi con ra đời, bà buộc phải ra đi. Almaaz đã phá vỡ luật lệ của chúng ta. Và con, một đứa trẻ với dòng máu pha trộn không còn là đơn thuần dòng máu Rahim. - Bà cụ sờ vào vết xăm trên mặt hình viên ngọc tượng trưng của bộ lạc. Safia không có vết xăm đó.

- Mẹ con đã nuôi nấng con bằng mọi thứ có thể có ở Khaluf - trên bờ biểnOman, không xaMuscat. Nhưng một tai nạn đã biến con thành trẻ mồ côi.

Trong thời gian đó, ngài Kensington chưa bao giờ từ bỏ việc tìm kiếm mẹ con... và có thể là giọt máu của ngài mà bà mang trọng bụng. Ông ta lùng sục khắpOman, tốn không biết bao nhiêu tiền, nhưng khi một trong những phụ nữ của chúng ta muốn không bị phát hiện thì không bao giờ có thể tìm thấy được. Dòng máu của quận chúaShebađã chảy trong chúng ta bằng nhiều cách.

Bà cụ liếc nhìn về phía những phụ nữ bộ lạc.

- Khi chúng ta biết được con trở thành đứa trẻ mồ côi, chúng ta không thể bỏ rơi con được. Chúng ta tìm đến nơi người ta đưa con tới rồi chuyển thông tin tới ngài Kensington. Ngài thật đau lòng khi biết tin về cái chết của Almaaz nhưng sa mạc đã lấy đi thì nó cũng trả lại. Nó đã trả lại cho ông ta một đứa con gái. Ngài đã nhận con rồi đưa về gia đình mình. Ta nghĩ rằng ông chờ đến khi nào cả hai con đủ khôn lớn để nhận ra sự phức tạp của cuộc đời thì mới tiết lộ việc hai người có chung một dòng máu.

Kara cựa quậy.

- Vào buổi sáng hôm đi săn... bố con có nói ông có một điều quan trọng muốn nói với con. Một điều gì đó vào ngày sinh thứ 16 của con. Con đã đủ khôn lớn để nghe. - Cô nuốt nước mắt, nghẹn ngào. - Con chỉ nghĩ chắc là về chuyện trường đại học.. chứ không phải...

Safia nắm bàn tay cô.

- Đúng vậy... giờ thì chúng ta đã biết.

Kara ngước nhìn, cặp mắt rất bối rối.

- Nhưng tại sao cha vẫn cứ theo đuổi Ubar? Con không hiểu được.

Bà cụ thở dài.

- Một trong nhiều lý do chúng ta bị cấm tiếp xúc với đàn ông. Có lẽ là những chuyện thì thầm trên gối. Một câu chuyện chia sẻ giữa những kẻ yêu nhau. Nhưng cha con đã biết về Ubar. Ông ta tìm kiếm thành phố bị mất tích có thể là cách để đến gần hơn với người phụ nữ ông đã đánh mất. Nhưng Ubar lại rất nguy hiểm. Trách nhiệm giữ gìn nó quả là nặng nề.

Như thể để chứng minh điều đó, bà cụ cố nhỏm dậy.

- Thế bây giờ chúng ta sẽ làm gì? - Safia đứng dậy cùng với Kara.

- Ta sẽ nói với các con dọc đường đi. - Bà cụ nói. - Chúng ta phải đi khá xa đấy.

- Chúng ta sẽ đi đâu? - Safia hỏi.

Câu hỏi dường như làm bà cụ ngạc nhiên.

- Con là một trong số chúng ta, Safia. Con đã đem lại cho chúng ta những chiếc chìa khóa.

- Chìa khóa và ngọn giáo.

Một cái gật đầu. Bà cụ quay đi.

- Sau hai nghìn năm, chúng ta đi mở cánh cửa vào Ubar.

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86765


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận