Tài liệu: Các đồ chạm nổi Amarna ở Hermopolis

Tài liệu
Các đồ chạm nổi Amarna ở Hermopolis

Nội dung

1939

Các đồ chạm nổi Amarna ở Hermopolis

1942 Mộ của hoàng tử Shoshenq ● 1944 Thắt lưng của Ptahsheppes

1945 Những bộ luật Nag Hammadi

Khám phá / khai quật 1939 bởi Gunther Roeder

Địa điểm el-Ashmunein

Thời kỳ Vương quốc mới, Triều đại 18, Thời kỳ Amarna, 1353 - 1333 trước CN

“Vào 1946 - 47 lần đầu tôi nhìn thấy những đồ chạm nổi, hàng trăm món không lớn hon 21 hay 22 inch, nhiều cái có khi còn nhỏ hơn... Chúng đều có nguồn gốc ở El-Amarna, nhưng rõ ràng là chúng không thể tìm thấy ở đó”.

JOHN COONEY

GONTHER ROEDER (1881 - 1966): "Tiến sĩ Reuder (sic) ... ăn trưa với chúng tôi. Vị này cãi nhau với bố (Cecil Firth) ... vì người này nói là một vài con mèo được sinh ra không có đuôi, và gần như “gọi ông ta ra” qua gạch mộc ...”

DIANA FIRTH

Sinh ở Schwiebus, Đức, ngày 02/08/1881. Học ở Jena và Berlin dưới Adolf Erman; đậu tiến sĩ năm 1904. Đầu tiên là nhà Ai Cập học ở Bảo tàng Berlin; Sở Cổ vật Ai Cập từ 1907, làm việc ở Nubia sao chép các đền thờ Debod, Kalabsha và Dakka và phân loại các điện thờ ở Bảo tàng Cairo. Giám đốc Bảo tàng Pelizaeus, Hirdesheim, 1915- 1945; giám đốc công trình ở Hermopolis cho Bảo tàng giữa 1929 và 1939. Mất ở Cairo, ngày 06/11/1966.

1942 – MÔ HOÀNG TỬ SHOSHENQ

Đây là một thời điểm có lợi cho những ai chú tâm đến những ngôi mộ giàu có của thời kỳ trung gian thứ ba, bắt đầu bằng việc khám phá những ngôi mộ hoàng gia ở Tanis do Pierre Montet thực hiện vào 1939. Và bây giờ, vào đầu năm 1942, học giả người Ai Cập Ahmad M. Badawi đem ra ánh sáng ngôi mộ giàu có của vị thái tử Shoshenq, người con trai của Osorkon II và đại tư tế của Ptah ở Memphis.

Vị trí mộ của Shoshenq nằm trong một nhóm các mộ của tầng lớp có quyền lực của xã hội thuộc Triều đại thứ 22 ở một địa điểm gọi là Kem el-Fakri, khoảng 250m (820 ít) ở phía Tây tượng khổng lồ Ramesses II rơi xuống, gần nơi mà Badawi đã phát hiện những nhà ướp (cho khỏi thối rữa) của các con bò đực Apis.

Dọn quang, mộ chứa một kho tàng tuyệt những đồ trang sức tùy táng, gồm ghế để ngón tay, ngón chân và dương vật bằng vàng, những đồ trang điểm khóa bên bằng vàng, một trái tim hình bọ hung bằng đá xanh và một bùa “Hocus cỡi cá sấu” - cũng như quách của hoàng tử, bình di hài, các tượng shabti (tổng cộng khoảng 200) và những chậu, bình lọ bằng đá hoa thạch cao.

El-Ashmunein - Hermopolis Magna xưa, trung tâm thờ thần Thoth - là trọng tâm của nhiều cuộc thăm dò khảo cổ học - từ những cuộc tìm kiếm của khoa nghiên cứu sách giấy cói của người Ý và người Đức, dưới sự chỉ huy của Schiaparelli và Evaristo Breccia, và Otto Rubensohn – vào đầu năm 1900, đến công trình khảo cổ học và kiến trúc của Bảo tàng Anh quốc dưới thời Jeffrey Spencer. Địa điểm của di chỉ đã là một vấn đề khó khăn, đa phần bị phá hủy vào thời cổ nhưng cũng đã cung cấp những điều lý thú bất ngờ. Về một mức độ nào đó, người Ý phát hiện những mánh giấy cói trang trí những hình tượng người, động vật và thực vật giống những mẫu mã dùng làm mẫu cho các xưởng dệt, như những đề tài điển hình tìm thấy trên vải vóc của người Cốp - những mảnh duy nhất trong báo cáo khảo cổ học Ai Cập. Tuy nhiên, mức độ quan trọng có khác nhau, khám phá được nhà Ai Cập học người Đức Gunther Roeder tiến hành trong những năm dẫn đến sự bùng nổ của đệ nhị thế chiến.

Tàn tích một cột tháp ngôi đền AMun nhổ ở Hermopolis, Ramesses II xây dựng và Sethos II và Merenptah trang trí. Toàn thể cấu trúc được xây dựng từ những tảng đá vôi của thới kỳ Amarna được dùng lại.

(Phải) 1944 THẮT LƯNG CỦA PTAHSHEPSES: Các cuộc khai quật được Abdel Salam M. Husein thực hiện ngoại vi đền thờ Thung lủng Unas vào tháng 01/1944 dẫn đến việc phát hiện tình cờ một quách bằng diệp thạch xám (Cao JE 87077) mà vào ngày mở ra cho thấy xác đã bị nước lũ phân rã. Xác đó là một hoàng tử của Vương quốc cổ Ptahshepses, có lẽ là một người con trai của Unas, vị vua cuối cùng của Triều đại thứ 5. Khai quật cẩn thận hầm nước cho thấy người chết tầm thường này chỉ mang độc nhất một thắt lưng vàng ... với mẫu những hột nhỏ vẫn còn nguyên vẹn, và hai bên một phần đã bị vở (JE 87078). Giữ nguyên hiện trạng (in situ) bằng sáp nấu chảy. Từ đó nó được A. Y. Moustafa gìn giữ và ngày nay trưng bày ở Bảo tàng Cairo.

(Trái) 1945 CÁC BỘ LUẬT CỦA NAG HAMMADI: Ai Cập từ lâu đã có truyền thống sản xuất ra những bản kinh văn quan trọng. Trong những phát hiện như thế có thánh số các bộ luật của Nag Hammadi, may mắn tìm thấy vào tháng 12/1945: hai anh em nông dân Mohammed và Khalifa Ali, giấu nó trong một cái hũ ở chân một cột trụ lớn dưới Gebel el-Tarif ở phía Bắc Ai Cập Thượng. Nghĩ rằng bình này chứa vàng, họ đập nó và từ đó rơi ra một tập sách bằng giấy cói buộc dây da.

Bộ sưu tập hiện nay được tập hợp ở Cairo, bao gồm 12 cuốn sách trọn vẹn và những mảnh của cuốn thứ 13 mà mẹ của Ali thử phá hủy trong một âm mưu giết người và sự cố làm cho tàn tật đầy tưởng tượng.

Dịch từ nguyên bản tiếng Hy Lạp ra tiếng Cốp và được một cộng đồng Thiên Chúa giáo theo thuyết ngộ đạo cất giấu vào khoảng năm400 sau CN. Bộ tài liệu lưu trữ này là một đóng góp lớn cho việc nghiên cứu thuyết ngộ đạo. Mỗi một tập gồm có nhiều phần - tổng cộng 52 phần trong có bản sao chính xác. Kể từ khi 6 trong 46 văn bản này được biết trước, phát hiện Nag Hammadi đã lan truyền tập sao lục của văn học ngộ đạo với 40 tên sách ấn tượng - trong có 75% văn bản được bảo quản trọn vẹn.

Kho lưu trữ Nag Hammadi, giống như kho đã được phát hiện vào 1952 ở Gebel Abu Mena (sách cói Bodmer hay những tài liệu ở Dishna theo địa điểm phát hiện của chúng) thuộc về dòng tu do Thánh Pachomius, sinh gần el – Qasr (Chenoboskion xưa) thành lập.

Trong các cuộc khai quật thực hiện ở bờ Tây của cái gọi là Cổng Nhân Sư ở el-Ashmunein, nhóm của Roeder gặp khoảng 1500 tảng đá được Ramesses II dùng làm vật liệu xây dựng. Trong cuộc thanh tra gần đây, người ta nhận thấy những tảng đá này được trang trí nổi theo phong cách Amarna, và đây đó có thể nhặt ra những tên của Tên và của Akhenaten và nữ hoàng đứng đầu của ông là Nefertiti. Rõ ràng là những tảng đá này được chuyển qua sông và địa điểm kinh thành bị bỏ đi của Akhenaten, el-amarna - một thành phố mà các công trình kiến trúc của các vị vua ban đầu thuộc Ramessid bắt đầu khai thác như một mỏ đá rất thích hợp để làm vật liệu xây dựng.

Một sự chọn lọc các tảng đá từ phát hiện của Roeder ở Hermopolis: (trên xuống dưới) Akhenaten với một cành ô-liu; tượng bán thân thiếu sinh động của hoàng gia; cảnh câu cá.

Những táng đá gọi là của Hermopolis này được Roeder và đoàn của ông chộp lấy trước khi kết thúc công trình. Chiến tranh bùng nổ của đợt khai quật của họ kết thúc. Một thời gian ngắn sau đoàn thám hiểm bỏ về Đức, các đồ chạm nổi tìm đường từ các báo Đức ra thị trường cổ vật Cairo. Và chính ở đây mà một sự chọn lọc của những đồ này và các cái khác (có lẽ có nguồn gốc từ những cuộc khai quật không chính thức thực hiện ở phía Đông Cửa Nhàn Sư) giờ được sơn phết lại thật đẹp đủ các sắc thái của màu phấn, được vị phụ trách Bảo tàng Brooklyn John D. Cooney nhìn thấy ngay sau khi chiến tranh chấm dứt.

Trong những năm gần đây, đồ chạm nổi ở Hermopolis được học giả người Đức Rainer Hanke nghiên cứu, đạt được những kết quả ấn tượng. Điều đó đã dọi ánh sáng quan trọng vào lịch sử của thời kỳ Amarna. Nổi tiếng nhất trong số đó có lẽ là cái đã được tạo lập và dành tất cả cho vai vế của cậu trai – pharaon Tutankhamun như là con trai của một vị vua. Giờ thì các hiện vật rải rác khắp thế giới, những đồ đẹp nhất- và tinh xáo nhất - cuối cùng cũng được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan ở New York, do chúc thư của nhà đại sưu tập người Mỹ Norbert Schimmel.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/216-02-633357260919375000/Pharaon-va-nguoi-doi-1914-1945/Cac-do-cham...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận