Diễn biến chính trị và tình hình kinh tế - xã hội
1. Định đô Thăng Long
Ngày 2 tháng 11 năm Kỉ Dậu tức là ngày 21 tháng 11 năm 1009, được thế lực Phật giáo đứng đầu là sư Vạn Hạnh cùng các triều thần ủng hộ, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế. Ông thấy Hoa Lư chật hẹp, kinh tế nông công thương còn thấp kém, giao thông vận tải gặp rất nhiều khó khăn, vị trí giao thông của sông Đáy đã giảm sút “không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đô đi nơi khác”. Bởi vậy công việc lớn đầu tiên là đời đô ra Đại La. Đầu năm 1010 nhà vua viết Chiếu dời đô. Bài chiếu có đoạn viết: “Chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh... được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc, Đông, Tây, lại tiện hướng nhìn sông, tựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước. Cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Tháng 8 năm 1010, Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra Đại La. Thuyền đỗ ở dưới thành thấy “có rồng vàng hiện lên thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành là thành Thăng Long”.
Lý Công Uẩn tổ chức công trường lớn xây thành Thăng Long. Thăng Long thời Lý được chia thành hai khu vực riêng biệt, có hai vòng thành bao bọc. Vòng thành ngoài là La Thành của Cao Biền được giữ nguyên.
Dấu vết La Thành còn lại ngày nay có thể phác họa như sau: phía đông là đoạn đê sông Hồng lên tới Hồ Tây, tiếp là đoạn Đường Hoàng Hoa Thám rồi chạy theo bờ tả ngạn sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Cầu Giấy lại tiếp qua Giảng Võ đến Ô Chợ Dừa, Kim Liên rồi thẳng Đường Đại Cồ Việt và Đường Trần Khát Chân cho đến Ô Đống Mác lại gặp đê sông Hồng, với độ dài khoảng 30 km. Như vậy La Thành thời Lý là vòng thành khép kín và chủ yếu dựa theo địa hình tự nhiên. Thành bằng đất, ngoài thành là sông Hồng, sông Tô Lịch và nhiều đầm hồ.
Vòng thành trong được xây đắp bắt đầu từ khi Lý Công Uẩn định đô và kéo dài trong mấy chục năm sau. Vòng thành trong cũng chủ yếu được đắp bằng đất, ngoài có hào bao quanh. Thành mở bốn cửa lớn là cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quảng Phúc ở phía tây, cửa Đại Hung ở phía nam, cửa Diệu Đức ở phía bắc (khu vực này đều thuộc quận Ba Đình ngày nay).
Vòng thành trong có hai khu: khu làm việc của triều đình và khu ở của hoàng thất. Chiếm vị trí trung tâm và quan trọng nhất là điện Càn Nguyên, nơi Vua và triều thần hội họp luận bàn chính sự. “Bên tả là điện Tập Hiền, bên hữu là điện Giảng Võ. Lại mở cửa Long Phi thông với cung Nghinh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn. Hướng chính nam dụng điện Cao Minh đều có thêm rồng. Trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên lại dựng hai điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ, bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau lại xây dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ.
Như vậy thành Thăng Long thời Lý trên bình diện kiến trúc các cung điện được bố trí theo kiểu trụi đối xứng lấy điện Càn Nguyên (sau gọi là điện Thiên An) làm trung tâm nhằm tăng thêm tính chất tôn nghiêm của quyền lực nhà vua. Việc phân chia thành hai khu vực, cũng có ý nghĩa phân biệt rõ ràng thân phận các tầng lớp cư dân.
Ngoài khu vực kiến trúc cung điện của các vua quan, cung tần, Thăng Long thời Lý còn có khu vực rộng lớn là các phố phường, làng nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Cùng với sông Hồng rộng lớn với nhiều bãi phù sa vòng qua phía bắc và phía đông, Thăng Long còn có nhiều hồ đầm, sông nhỏ bao quanh. Hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) phía bắc, sông Tô Lịch ven theo phía tây và vòng xuống tây nam. Sông Kim Ngưu và một số đầm nhỏ chảy xuôi về phía nam và phía đông thành Đại La. Gần đê sông Hồng cũng có hệ thống hồ đầm (kéo dài từ phía nam chợ Đồng Xuân, hồ Hoàn Kiếm ra khu vực Bẩy mẫu ngày nay).
Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt.
2. Tổ chức chính quyền, triều đình và các cấp địa phương
a) Triều đình
Năm 1010, Lý Thái Tổ chuyển các quan chức từ Hoa Lư ra Thăng Long thiết lập một triều đình tập trung quyền hành vào tay hoàng đế. Các cơ quan và chức vụ chủ yếu buổi đầu vẫn giữ theo thể thức triều Đinh - Lê.
Lý Thái Tổ và các vua tiếp theo đều dùng nhiều biện pháp tăng cường quý tộc hóa và quan liêu hóa dòng họ Lý, tạo ra một hoàng tộc lớn để nắm các chức vụ chủ chốt của chính quyền. Lý Thái Tổ vừa lên ngôi vua là ban chức phong tước cho con cháu, những người thân trong họ hàng cùng các quan lại có công tôn phù. Các con của ông đều được phong là Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương, Khai Quốc Vương... Các Vương đều có phủ đệ riêng. Thái Tổ còn phong cho anh làm Vũ Uy Vương, chú làm Vũ Đạo Vương, con của Vũ Uy Vương là Trưng Hiền làm Thái úy. Người có công trợ giúp tích cực như Đào Cam Mộc được phong là Tín Nghĩa hầu, lấy trưởng nữ của Lý Thái Tổ. Các người khác như Trần Cảo được phong là tướng công, Ngô Đinh làm khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm thái phó.
Loạn ba vương. Ngày 1 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ mất. Triều thần đến cung Long Đức đưa Thái tử Phật Mã lên ngôi hoàng đế. Biết tin này, Đông Chinh vương Lực cùng với Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương kéo quân của phủ mình vào Cấm Thành. Đông Chinh Vương mai phục ở phía trong Cấm Thành, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương phục quân ở cửa Quảng Phúc, đợi Thái tử Phật Mã đến thì đánh úp. Phật Mã từ cửa Tường Phù vào đến điện Càn Nguyên, thấy động, liền cho quân đóng các cửa điện lại và sai quân lính bố trí phòng bị. Phật Mã nhìn những người hầu cận xung quanh hỏi: “Ta đối với anh em không phụ bạc chút nào. Nay ba vương làm việc bất nghĩa, quên đi mệnh của tiên đế, muốn mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào?” - Nội thị Lý Nhân Nghĩa thẳng thắn trả lời: “Nay ba vương làm phản thì là anh em hay là kẻ thù? Xin cho thần đánh một trận để quyết được thua”.
Quan ba phủ vẫn vây bức gấp rút. Phật Mã liệu thế không thể kìm được, bèn giao việc đánh dẹp cho Lý Nhân Nghĩa, Lê Phụng Hiểu. Nghĩa và Hiểu mở cửa thành thúc quân tiến đánh. Lê Phụng Hiểu tuốt gươm xông thẳng đến cửa Quảng Phúc hô to: “Bọn Vũ Đức Vương trong bụng ngấm ngầm làm điều phản trắc, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, Phụng Hiểu xin dâng lưỡi gươm này”. Rồi thẳng đến bên ngựa Vũ Đức Vương, bắt sống Vũ Đức và giết tại trận. Quân ba vương phủ tan chạy, bị giết gần hết. Đông Chinh và Dực Thánh thoát thân.
Ngày 4 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Đông Chinh và Dực Thánh đến xin chịu tội. Vua tha tội chết.
Ba vương Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức đã làm náo loạn triều đình, ngôi hoàng đế của Phật Mã nghiêng ngửa. Ông nghĩ rằng cần phải cố kết chặt chẽ các quý tộc họ Lý và triều thần hơn nữa thì mới giữ vững ngôi vua, triều đình mới ổn định, rồi đặt ra lễ thề đền Đồng Cổ (nay là quận Ba Đình, Hà Nội). Ngày 25 tháng 8 (âm lịch) hàng năm tất cả con cháu họ Lý, các đại thần trong triều chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo trước thần vị Đồng Cổ cùng nhau uống máu ăn thề: “làm con bất hiếu, làm tôi bất trung xin thần minh giết chết”. Người nào trốn tránh không đến bị phạt 50 trượng.
Sau nội loạn ba vương, Lý Thái Tông tăng cường thêm võ quan. Những bầy tôi thân tín như Lê Phụng Hiểu, Lý Nhân Nghĩa được giữ các chức vụ chủ chốt trong triều. Người thân của các hoàng hậu vào nắm chính quyền như một lực lượng của nội tộc họ Lý. Cha của hoàng hậu họ Mai là Hựu làm An quốc thượng tướng, cha của hoàng hậu họ Vương là Đỗ làm Phụ quốc thượng tướng, cha của hoàng hậu họ Đinh là Ngô Thượng làm Khuông quốc thượng tướng.
Thời Lý, ngoại thích là bộ phận nắm chức vụ lớn trong triều đình, điển hình là việc Lý Anh Tông dùng Đỗ Anh Vũ, em của Đỗ Thái hậu. Uy thế của Vũ rất lớn, “Vũ lại tư thông với Lê Thái hậu, nhân thế là càng kiêu căng, ở triều đình thì thoát tay lớn tiếng, sai bảo quan lại thì hất hàm ra hiệu, mọi người đều liếc nhau không dám nói”. Vào đầu thế kỉ XIII, chính họ Trần ở Hải ấp (Thái Bình) đã lợi dụng thế ngoại thích đưa người vào nắm chính quyền rồi lật đổ nhà Lý.
Trong triều đình, các đại thần mang danh hiệu “bình chương quân quốc trọng sự”, được phép bàn bạc việc nước với vua. Các đại thần này gồm những chức Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), Thái uý, Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo). Có thể kể một số tể tướng nhiều danh vọng thời Lý như Lý Thường Kiệt làm Thái uý phụ quốc thượng tướng quân, Lý Đạo Thành làm Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự thời Lý Thánh Tông; Tô Hiến Thành giữ chức Nhập nội kiểm hiệu Thái uý bình chương quân quốc trọng sự, (thời Lý Anh Tông) cũng nổi tiếng là người chính trực.
Các chức bên dưới là các hành khiển được gia thêm danh hiệu “nhập nội hành khiển đồng trung thư môn hạ bình chương sự”. Các hành khiển phần nhiều lấy trong hàng ngũ hoạn quan.
Đại thần, Thái uý, hành khiển là các quan chức nằm trong cơ quan gọi là “mặt viện” (bao gồm trung thư sảnh và môn hạ sảnh).
Dưới bộ phận trung khu là các sảnh, viện. Sách Lịch triều hiến chương loại chí có ghi: “Bên văn thì có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang. Thuộc quan thì có trung thư thừa, trung thư xá nhân. (Lại có) bộ thị lang, tả hữu ti lang trung, thượng thư sảnh viên ngoại lang, đông tây cáp môn sứ, tà hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thức trực lang, thừa tín lang”. “Võ ban thì có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ, chỉ huy sứ, vũ vệ hỏa đầu”.
Rải rác sử sách cũ còn ghi một số quan chức như đại liêu ban, thân vương ban, minh tự và trí tự.
Hiện nay khó mà xác định cụ thể hàm chức, phẩm trật và nhiệm vụ của từng quan chức thời Lý. Nhìn chung thì mô hình tổ chức trên ngày càng được củng cố, đặc biệt thời Lý Nhân Tông (1072 - 1127).
b) Chính quyền địa phương các cấp
Vừa mới lên ngôi, Lý Thái Tổ chia lại các khu vực hành chính trong nước, đổi 10 đạo thời Đinh - Lê thành các lộ và phủ. Đến đầu đời Lý Nhân Tông, trên địa bàn cả nước đã có 24 phủ - lộ. Dưới phủ là huyện và dưới huyện là hương. Đây là công cuộc cải tổ hành chính có quy mô lớn, góp phần quan trọng trong công cuộc quản lí toàn diện đất nước, tạo nên sức mạnh cho Nhà nước họ Lý, cho quốc gia Đại Việt tập trung hơn.
Châu Cổ Pháp - quê hương họ Lý - đổi thành phủ Thiên Đức, vùng cố đô Hoa Lư thành phủ Trường Yên, đổi trấn Triều Dương thành châu Vĩnh An. Năm 1036 đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An và Ái Châu thành phủ Thanh Hóa.
Căn cứ vào Dư địa chí (của Nguyễn Trãi, thế kỉ XV) và Đại Nam nhất thống chí (thế kỉ XIX) có thể biết được vị trí một số lộ, phủ, châu sau:
+ Lộ Hải Thanh nay thuộc Nam Định, Thái Bình; lộ Trường Yên nay là Ninh Bình; phủ Lý Nhân nay thuộc vùng đất Hà Nam.
+ Phủ Phú Lương sau đổi là châu Thái Nguyên nay là Thái Nguyên; châu Vũ Lạc nay là Bắc Cạn.
+ Châu Nghệ An (sau đổi là phủ) gọi là đất trại tương ứng với vùng Nghệ - Tĩnh.
+ Phủ Thanh Hóa cũng gọi là đất trại, nay là tỉnh Thanh Hóa.
+ Châu Chân Đăng là vùng Phú Thọ.
+ Châu Đằng và châu Khoái là tỉnh Hưng Yên.
+ Châu Hồng nay là tỉnh Hải Dương và Hải Phòng.
+ Châu Vĩnh An nay là tỉnh Quảng Ninh.
+ Châu (sau gọi là lộ) Quốc Oai là vùng Hà Tây.
+ Đạo Lâm Tây là vùng Tây Bắc.
+ Lộ Ứng Thiên bao gồm kinh đô Thăng Long là vùng Hà Nội và một phần đất phía nam Hà Nội thuộc tỉnh Hà Tây.
+ Lộ Bắc Giang là các tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.
+ Lộ Lạng Giang là vùng Lạng Sơn và phần huyện Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn của Bắc Giang.
+ Châu Lâm Bình là tỉnh Quảng Bình.
+ …
Cách gọi lộ, phủ, châu không thống nhất là do kiểu thức quản lí và chính sách của triều đình đối với từng vùng dân cư và địa lí có khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng thì được gọi là lộ hay phủ. Ở miền núi thì gọi là châu hay đạo. Chỉnh sách của nhà Lý đối với miền núi nói chung, là nương nhẹ, “ràng buộc” (ki mi) là chủ yếu. Vùng đất xa kinh đô như Thanh Hóa và Nghệ An thì lúc đầu gọi châu, sau gọi là phủ, còn gọi là trấn, trại. Những cách gọi khác nhau (phủ, lộ, trán, đạo, châu) thể hiện tính chất tập trung của Nhà nước chưa thật triệt để.
Đứng đấu phủ, lộ là tri phủ, phán phủ (có tài liệu ghi là thông phán).
Mỗi phủ (lộ, châu) bao gồm nhiều huyện. Người đứng đầu đơn vị hành chính cấp huyện - nhiều tài liệu ghi là quận thường được gọi là huyện lệnh.
Huyện bao gồm nhiều hương. Ở kinh đô thì gọi là giai (hay nhai) ở miền núi thì gọi là sách hay động. Thăng Long thời Lý có 61 giai, phân bố chủ yếu ở quanh vùng hồ Dâm Đàm. Tương truyền các giai Hồ Khẩu, Nghi Tàm, Nghĩa Đô, Nhược Công đã xuất hiện vào thời đó. Các hương ấp ở nông thôn thường bao gồm một số làng xóm. Một số làng quê do một số dòng họ cư trú và quản lí. Chẳng hạn như Lưu Gia Thôn, còn gọi là Lưu Xá, (xã Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình) là làng của họ Lưu.
c) Hệ thống tăng quan
Lực lượng Phật giáo rất lớn, càng về sau càng phát triển. Phật giáo đã đông người lại có ruộng đất riêng, không thể không có tổ chức tham gia chính quyền ở trung ương và các địa phương. Các vua Lý kế thừa tổ chức tăng quan thời Đinh - Lê. Đây là tổ chức có tính chất tôn giáo, liên quan chặt chẽ với hệ thống nhà nước. Một số tăng sĩ có đạo cao, có học vấn uyên bác được nhà vua tôn trọng, coi như là thầy thì được phong là Quốc sư. Quốc sư ở đây không phải có cố vấn chính trị, mà chỉ là người giúp nhà vua hiểu biết về đạo nghĩa Phật giáo. Sau Vạn Hạnh là các vị Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ được ban hiệu quốc sư. Hệ thống tăng quan là tổ chức độc đáo của triều Lý. Nó không phải là tổ chức hành đạo với các chức vụ như hòa thượng, đại đức, yết ma v.v.. Tăng quan triều Lý là những người giúp cho nhà vua quản lí các tăng đồ về mặt hành chính, đồng thời trên thực tế cũng là người bảo vệ quyền lợi của Phật giáo.
3. Quân đội thời Lý
Quân đội thời Lý có quân triều đình, thường gọi là Cấm quân (quân đóng ở kinh thành) và quân các địa phương gọi là lộ quân hay sương quân (quân ở phủ, châu) ngoài ra còn có lực lượng dân binh là hương binh ở đồng bằng và thổ binh ở miền núi. Đây là lực lượng dân chúng vũ trang được động viên trong thời chiến để chiến đấu trong địa phương hương ấp.
Nhà Lý có biện pháp quản lí hộ tịch và kiểm kê nhân khẩu khá chặt chẽ để dự tuyển binh lính. Đây chính là cơ sở xác định quân hạng. Theo định lệ hàng năm, vào mùa xuân, các xã quan phải lập hộ tịch của xã mình kê khai nhân số xếp thành từng hạng là tôn thất (người trong họ vua), quan văn, quan võ, quan theo hầu, quân nhân, tạp lưu, hoàng nam (đinh nam đến tuổi trưởng thành), long lão (già yếu), người tàn tật, người xiêu tán.
Nhà nước dựa vào quân số do các hương kê khai làm chuẩn định. Theo quy định thì tất cả đinh nam từ 18 tuổi trở lên đều được biên vào cuốn sổ màu vàng thì được gọi là hoàng nam, 20 tuổi trở lên gọi là đại hoàng nam.
Nhà nước tìm cách quản lí chặt chẽ số đinh tráng trong nước - cơ sở nhân lực để tuyển bổ quân ngũ và sai dịch. Nhà nước còn ra luật cấm nuôi tư nô và những người đến tuổi hoàng nam, ai mua bán hoàng nam, che giấu đại hoàng nam thì bị nghiêm trị.
Theo luật này, nhà nước đặt tất cả các dân đinh đến tuổi trưởng thành vào loại người chịu binh dịch và tiến hành tuyển binh. Tuy nhiên, trong thời bình, nhà nước chỉ tuyển dụng một số lượng nhỏ đinh tráng nhất định sung vào quân ngũ để canh phòng và luyện tập. Ngoài ra, số còn lại thì ghi tên vào sổ quân, lúc thường ở nhà luyện tập, khi cần sẽ được chiếu sổ gọi vào quân ngũ. Phan Huy Chú ghi: “Đại ước, người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn lâu chóng có lẽ không nhất định”.
Những ghi chép của sử cũ như trên cho biết vào buổi đầu, nhà Lý có khoảng vài chục đô (mỗi đô 100 người) và vệ quân (mỗi quân 200 người). Đây là những “Thiên tử binh” trong các đơn vị bảo vệ cấm thành. Còn quân của các địa phương chưa kể đến. “Đại Việt sử kí toàn thư” có ghi sự kiện phản ánh gián tiếp số quân của nhà Lý vào giữa thế kỉ XII như sau: Năm 1161, khi đất nước trong hòa bình, “Lý Anh Tông sai đô tướng Tô Hiến Thành và phó tướng Đỗ An Di đem 2 vạn quân đi tuần tiễu ở các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên cõi xa”. Quân số như trên không phải là ít, giả sử nếu có chỉ bằng 114 số quân trong cả nước thì tổng số quân thường trực phải tới 7 - 8 vạn người.
Ở thời Lý, quân đội Đại Việt có hai bộ phận là quân bộ và quân thủy. Trong quân bộ, ngoài bộ binh là chủ yếu còn có các binh chủng kị binh, tượng binh, lính cung nỏ v.v... quân thủy đã có những hạm thuyền lớn thành thạo thủy chiến. Ở kinh thành có khu giảng tập binh pháp có nơi huấn luyện vũ thuật, cung nỏ.
Phiên chế và tổ chức quân đội thời Lý khá độc đáo. Tổng Sử có ghi “Thái Duyên Khánh là tri châu ở đất Hoạt, thường học được phép tổ chức quân đội của An Nam, bắt chước quy chế chia ra từng bộ phận, chia chính binh, cung tiễn phủ nhận mã đoàn làm 9 phủ. Hợp trăm đội chia ra làm tả, hữu, tiền, hậu 4 bộ. Mã đội có trú chiến (đóng quân để đánh), thác chiến (đi đánh) khác nhau. Tướng nào cũng có lịch bộ, quân kị, khí giới. Vua Thần Tông (Nhà Tống) khen phải”. Lê Quý Đôn bình luận thêm “ấy binh pháp của nhà Lý (nước ta) được triều Tống (Trung Quốc) bắt chước như thế”.
Thời Lý là thời đầu tiên thực hiện chính sách “Ngụ binh ư nông”. Sử gia thời trước chép về chính sách này là Ngô Thì Sĩ và sau đó là Phan Huy Chú. Các tác giả bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục đề cập quá sơ lược. Trong bộ Đại Việt sử kí, Ngô Thì Sĩ viết: “Đời xưa giữ quân lính ở việc làm ruộng là phục việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện... (Binh chế buổi đầu nhà Lý... đem (quân lính), chia phiên về làm nghề nông để mệt nhọc và nhàn hạ được chia đều, việc cấp lương được giảm bớt. Về sau thay đổi bất thường. Đến nay lại bắt đầu theo chế độ cũ. Đó là chính sách tốt của (Lý) Thần Tông khi mới cầm quyền”.
Trong phần “Binh chế chí” của sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú còn viết trong mục: “Lệ nuôi binh và cấp tuất”. “Đời Lý ngoại binh không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý ... binh các đạo đều chia phiên về nhà làm ruộng cho đỡ tốn lương... Phép nuôi binh thời Lê sơ đại để theo phép ngụ binh ư nông của các thời Lý Trần không phải cấp lương bổng”. Chính sách ngụ binh ư nông với nội dung kết hợp chặt chẽ” “binh và nông” là một cơ chế quân sự đã được thể nghiệm trong thực tiễn xã hội đến thế kỉ XV.
4. Pháp luật
Thời Ngô, Đinh, Lê, Nhà nước chưa có một hệ thống pháp luật. Đến năm 1042 Lý Thái Tông sai trung thư san định luật lệnh, chấn chỉnh cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu - sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện”.
Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử (Nghệ văn chí) thì Hình thư đời Lý Thái Tông gồm có ba quyển, bây giờ thất truyền. Tuy không được biết Hình thư thời Lý, nhưng qua những pháp lệnh được chép lại trong sử cũ, chúng ta cũng có thể thấy rõ tính chất của pháp luật thời Lý.
Ngay sau khi ban bố Hình thư, vua Lý đã quy định thể lệ chuộc tội. Những người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới 15 tuổi, người có nhược tật, những người họ nhà vua và có công lớn nếu phạm tội có thể chuộc bằng tiền, trừ phạm tội thập ác. Năm 1071, lại quy định thêm là người được nộp tiền chuộc tội, phải tùy theo tội nặng hay nhẹ mà bắt nộp tiền nhiều hay ít khác nhau.
Để bảo đảm tuyệt đối tính mệnh của nhà vua, năm 1150 Lý Anh Tông đã hạ lệnh cấm hoạn quan không được tự tiện vào cung cấm, người nào phạm tội thì bị tội chết, kẻ nào canh giữ không cẩn thận để cho người khác vào cung, cũng bị tội chết. Các triều quan không được đi lại với các vương hầu ở trong cấm đình, không hội họp 5 - 8 người bàn bạc, chê bai, không được qua lại hành lang để khí giới của quân Phụng Quốc vệ đô tức là quân cấm binh thân tín bảo vệ nhà vua, ai phạm tội đó bị đánh 80 trượng và chịu tội đồ. Người nào vào trong hành lang ấy thì bị xử tử. Ngay cả quân phụng vệ, có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, nếu không có chiếu chỉ mà cầm vũ khí đi qua phía ngoài hành lang cũng bị xử tử. Vua Lý đã dùng những cực hình tàn khốc để giết những người chống đối với nhà vua. Năm 1035, Định Thắng đại tướng là Nguyễn Khánh, cùng với đô thống Đàm Toái Trạng, nhà sư họ Hồ và các em vua là bọn Thắng Cán, Thái Phúc, toan đoạt ngôi vua. Nguyễn Khánh và nhà sư họ Hồ đều bị cắt thịt róc xương ở chợ Tầy. Pháp luật nhà Lý còn bảo vệ nguồn thu nhập của nhà nước, đặc biệt là bảo đảm dân đinh là sức lao động chủ yếu mà nhà nước sử dụng. Năm 1146, vua đã ra lệnh cho bách quan, quản giáp, chủ đô, khi tuyển lính để bổ sung cho cấm quân phải chọn những hộ lớn tức là những hộ nhiều người, không được lấy những người cô độc, ai làm trái sẽ bị trị tội.
Thể lệ về việc thu thuế cũng được quy định rõ. Các quan lại thu thuế của nhân dân, ngoài mười phần đóng vào kho nhà nước, được thu riêng một phần gọi là “hoành đầu”. Kẻ nào thu quá số ấy thì bị khép vào tội ăn trộm. Trong nhân dân nếu có ai tố cáo việc lạm thu ấy, thì được miễn lao dịch ba năm, người ở kinh thành cáo giác thì được thưởng. Nếu quản giáp, chủ đô và người trưng thuế thông đồng với nhau thu quá lệ, tuy đã lâu ngày mà có người cáo phát thì tất cả cũng bị tội như nhau. Khố ti thu thuế lụa, nếu ăn lễ lấy lụa của nhân dân thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng; một tấm lụa đến trên 10 tấm thì theo số tấm, thêm phối dịch 10 năm.
Pháp luật thời Lý phản ánh rõ sự phân biệt đẳng cấp xã hội. Đẳng cấp quý tộc quan liêu được hưởng nhiều đặc quyền, ngay cả trang phục, nhà cửa cũng phân biệt với nhân dân. Thợ trong các bách tác cục không được chế tạo những đồ dùng kiểu nhà quan bán ra cho dân gian. Con cái dân gian không được bắt chước cách trang sức ở trong cung.
Tầng lớp nô tì có địa vị thấp kém nhất. Pháp luật quy định rằng nô tì không được lấy con gái của dân gian. Tư nô không được xem mình như cấm quân xăm hình rồng, người nào phạm thì bị sung công. Nô tì nhà vương hầu và bách quan không được cậy thế đánh đập quân dân, nếu phạm cấm thì chủ phải tội đồ, còn nô bộc thì bị sung công.
Pháp luật nhà Lý đã phản ánh và chấp nhận sự xuất hiện chế độ tư hữu ruộng đất. Anh Tông đã quy định phép chuộc ruộng và nhận ruộng, ruộng cầm đợ trong 20 năm được chuộc, tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm thì được quyền kiện. Có ruộng vườn hoang người khác đã cày cấy, tranh nhận lại không được quá một năm, ai làm trái bị 80 trượng. Ruộng đã bán đoạn có khế ước thì không được chuộc, ai trái cũng bị 80 trượng. Tranh nhận ruộng ao mà dùng binh khí đánh người tử thương cũng bị 80 trượng, xử tội đồ và đem ruộng ao trả cho người tử thương.
Để bảo đảm sản xuất nông nghiệp, việc giết trâu bò được quy định chặt chẽ, ai giết trâu bò không đúng quy định bị xử nặng. Linh ngoại đại đáp chép rằng người ăn trộm bị chặt hết ngón chân, ngón tay. Năm 1043, nhà vua định rằng người nào trộm lúa má của cải của bách tính, lấy được của thì đánh 100 trượng. Không lấy được của mà làm bị thương người thì bị tội lưu. Quân lính cướp của cải của dân bị đánh 100 trượng và thích 80 chữ.
Ở thời Lý đã có cơ quan chuyên trách xử án, giám sát hình ngục. Đó là cơ quan bộ Hình và thẩm hình viện, thường là các á tướng kiêm nhiệm. Văn bia Sùng Thiện diên linh cho biết vào thời Lý Nhân Tông có Nguyễn Công Bật làm hình bộ thượng thư và Lý Bảo cũng làm đồng tri thẩm hình viện sự.
Một đôi lần vua cũng trực tiếp xét xử. Chẳng hạn vào tháng 7 năm 1065, vua Lý ra điện Thiên Khánh để xét kiện. Mỗi khi có dịp lễ hội, cầu đảo, thời tiết thay đổi, khi mới lên ngôi v.v.. nhà vua ra lệnh chẩn tế, giảm niên hạn hay tha bớt tù. Am hiểu hình luật cũng là điều kiện làm quan. Năm 1077, nhà Lý tổ chức thi lại viên để tuyển chọn quan lại; với ba môn thi: thư (viết chữ) toán và hình luật.
Vào thời Lý Anh Tông, triều đình có đặt hòm bằng đồng để thu nhận thu oan. Nhưng sau Đỗ Anh Vũ chống lại biện pháp này.
Hình thư và các luật lệnh khác ra đời cùng với sự tồn tại cơ quan hình bộ và thẩm hình viện riêng biệt là bước tiến trong tổ chức quản lí của nhà nước thời Lý. Có thể cho rằng hiệu lực của nó hãy còn hạn chế.
5. Chính sách đối với các dân tộc thiểu số miền núi
Nhà Lý tuy đã cố gắng xây dựng chính quyền tập trung, tổ chức được một bộ máy hành chính từ trung ương đến các địa phương ở vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng ở các vùng xa, nhất là ở miền núi, ảnh hưởng của triều đình vẫn còn chưa sâu đậm, triều đình vẫn chưa chi phối bộ máy hành chính địa phương. Chính quyền ở các châu huyện miền núi thực tế vẫn nằm trong tay tầng lớp thống trị người địa phương như các tù trưởng các sách, các động cha truyện con nối. Các vua Lý đã dùng chính sách “ràng buộc” tầng lớp thống trị miền núi và khi cần thiết cũng phải dùng biện pháp trấn áp bằng lực lượng quân sự để bảo vệ sự thống nhất của đất nước.
Một trong những chính sách ràng buộc tầng lớp thống trị miền núi là vua Lý dùng quan hệ hôn nhân để lôi kéo các châu mục, tù trưởng có thế lực Lý Công Uẩn gả con gái cho tù trưởng động Giáp ở Lạng Châu (một phần Bắc Giang và Lạng Sơn ngày nay) là Giáp Thừa Quý. Thừa Quý đã đổi ra họ Thân và được làm châu mục Lạng Châu. Con Thừa Quý là Thân Thiệu Thái nối cha tiếp tục làm châu mục Lạng Châu và năm 1029 lấy công chúa Bình Dương, con Lý Thái Tông. Con trai của Thiệu Thái và công chúa Bình Dương là Thân Đạo Nguyên lại lấy công chúa Thiên Thành. Năm 1036, Thái Tông gả công chúa Kim Thành (Việt Sử lược chép là Khánh Thành) cho châu mục Phong Châu (vùng Phú Thọ và Sơn Tây cũ) là Lê Thuận Tông; gả công chúa Trường Ninh cho châu mục châu Thượng Oai là Hà Thiện Lãm.
Thái Tông lại lấy con gái của Đào Đại Di ở Đăng Châu làm phi. Thánh Tông gả con nuôi là công chúa Ngọc Kiều (vốn là con gái Phụng Càn Vương Lý Nhật Trung) cho châu mục châu Chân Đăng họ Lê. Năm 1082, Nhân Tông lại gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang) là Hà Hưng Tông.
Mối ràng buộc đặt trên cơ sở hôn nhân gia đình đó đã có tác dụng tích cực lôi kéo được nhiều tù trưởng gắn bó với đất nước, với triều đình. Thực tế, chính quyền ở các châu miền núi vẫn là tự trị, các tù trưởng, cha truyền con nối làm tri châu. Các châu mục chỉ phải cống nạp lâm sản hay khoáng sản để tỏ lòng thần phục. Chính châu mục họ Hà ở Vị Long cũng đã góp nhiều công sức cho công cuộc kháng chiến chống Tống. Văn bia Sùng Phúc tự bi minh còn ghi “Năm Ất mão niên hiệu Thái Ninh (1075), thân phụ thái phó (Hà Hưng Tông) chỉnh đốn vương sự, đánh sang Ải Bắc, vây thành Ung cho bõ giận; bắt võ tướng, dâng tù binh... được nhà vua ban hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ”.
Vào giữa thế kỉ XII, Dương Tự Minh tù trưởng người Tày ở phủ Phú Lương (lấy công chúa Thiều Dung) cũng là trung thần của nhà Lý. Trong những năm 40 của thế kỉ này Dương Tự Minh được Lý Anh Tông tin cậy giao cho nhiệm vụ cai quản các khê động vùng Tư Lang, Quảng Nguyên (Cao Bằng). Tháng 9 năm 1145, Đàm Hữu Lượng viên tướng Tống đem quân từ Quảng Tây xâm nhập vào lãnh thổ nước ta bị Dương Tự Minh cùng nhân dân biên giới đánh tan. Sau trận này, quân Tống thôi quấy phá “nhờ đấy nhân dân một dải biên giới được yên ổn”.
Ở vùng biên giới phía bắc còn có Hoàng Lục. Ông quê ở xã Lũng Định, huyện Thượng Lang (Cao Bằng) là tù trưởng một vùng đất tương đối giàu có ở sát biên giới. Huyện Thượng Lang thường bị quân Tống ở Quảng Tây xâm nhập quấy rối liên miên. Ông đã tuyển chọn đinh tráng trong vùng đánh tan quân Tống. Hoàng Lục được vua Lý phong là An Biên tướng quân.
6. Cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao
Trong các cuộc nổi dậy của các dân tộc miền núi, thì cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao ở châu Quảng Nguyên là lớn nhất. Châu Quảng Nguyên thuộc địa phận tỉnh Cao Bằng ngày nay (đến đời Lê đổi ra châu Quảng Uyên, nhưng có lẽ Quảng Nguyên thời Lý lớn hơn Quảng Uyên bây giờ). Đấy là một vùng rất nhiều khoáng sản, nổi tiếng nhất là vàng. Chính vì thế từ thế kỉ XI nhà Lý ở Việt Nam và nhà Tống ở Trung Quốc đều luôn luôn để ý đến vùng này.
Đầu đời Lý, Nùng Tồn Phúc quê ở động Tương Cần, chầu Thạch An (Thạch An, Cao Bằng), làm thủ lĩnh châu Thảng Do (vùng Trung Thẳng, Cao Bằng). Em Tồn Phúc là thủ lĩnh châu Vạn Nhai (Vũ Nhai, Lạng Sơn), em vợ là Đương Đạo thủ lĩnh châu Vũ Lặc (Bắc Cạn). Hàng năm, họ Nùng nộp cống các sản vật địa phương cho vua Lý. Năm 1038, Tồn Phúc nổi dậy, không chịu cống cho vua Lý, tự xưng là Chiêu Thánh hoàng đế, phong cho vợ là A Nùng làm Minh Đức hoàng hậu, phong cho con là Trí Thông lâm Nam Nha Vương, sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì, đổi châu Quảng Do thành nước “Trường Sinh”.
Năm 1039, thủ lĩnh Tây Nông (vùng Thái Nguyên) là Hà Văn Trinh báo tin Nùng Tồn Phúc nổi dậy chống triều đình Lý. Lý Thái Tông giao cho Khai Hoàng Vương coi mọi việc, tự mình đem quân đi trấn áp. Trong bài chiếu “Bình Nùng”, Lý Thái Tông viết: “... họ Nùng đời này qua đời khác cũng giữ yên bờ cõi được phong, hàng năm nộp đều cống phẩm. Nay, Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị hiệu, ban hành chính lệnh tụ tập quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế, trẫm cung kính thi hành mệnh trời trách phạt ...”.
Tồn Phúc vào rừng núi, vua Lý cho quân đuổi theo bắt được Tồn Phúc, và con trai là Trí Thông. Vợ là A Nùng và con là Trí Cao chạy thoát đến vùng Lôi Hỏa. Vua Lý san phẳng thành trì của Tồn Phúc, giải Tồn Phúc và Trí Thông về Thăng Long chém ở chợ Kinh đô.
Năm 1041, A Nùng và Trí Cao từ Lôi Hỏa trở về châu Thảng Do chiêu tập quân chúng ở các nơi, xây dựng nước “Đại Lịch” chống lại nhà Lý. Thái Tông đã sai tướng đem quân đi đánh Thảng Do, bắt được Nùng Trí Cao đem về Thăng Long. Dùng chính sách mua chuộc lôi kéo, vua Lý đã tha cho Trí Cao và phong làm châu mục Quảng Nguyên, lại thêm vào bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và châu Tư Lang (Hạ Lang, Cao Bằng). Năm 1043, Thái Tông gia phong cho Trí Cao chức thái bảo.
Nhưng danh tước không dập tắt được ý đồ của Trí Cao. Năm 1044, “thái bảo” Nùng Trí Cao về Thăng Long, có lẽ là để xem xét tình hình. Sau 4 năm tụ tập lực lượng, Trí Cao lại nổi dậy ở động Vật Ác, vua Lý sai thái úy Quách Thịnh Dật tấn công, nhưng không được. Trí Cao lại chiếm cả châu An Đức thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) làm căn cứ địa, xây dựng nước “Nam Thiên” niên hiệu là Cảnh Thụy, phát động cuộc chiến tranh chống vương triều Tống. Năm 1050, chỉ huy sứ Ung Châu là Kì Bân đem quân đi đánh Trí Cao, đã bị Trí Cao bắt sống. Vì không thể cùng một lúc chống lại cả hai vương triều Lý và Tống, nên Trí Cao quyết định trong nhất thời xưng thần với vua Tống thả Kì Bân về, đưa biểu xin nộp cống, nhưng vua Tống cự tuyệt, lấy cớ là Trí Cao đã thuộc Giao Chỉ, việc đó làm Trí Cao càng cương quyết chống Tống.
Nùng Trí Cao đem quân đánh phá Quảng Đông, Quảng Tây. Quân Tống chống cự không nổi. Vương An Thạch nói rõ tình trạng này trong bài Quế Châu Tân thành kì: “Nùng Trí Cao làm phản ở phương Nam, ra vào 12 châu (chỉ vùng Lưỡng Quảng) quan lại đứng đầu 12 châu đó có kẻ chết, kẻ sống, nhưng không một ai giữ được thành”.
Năm 1053, vua Tống cử Địch Thanh làm tuyên phủ sứ đi đánh Trí Cao. Thanh hợp quân với Tôn Miện, Dư Tĩnh tiến đánh Trí Cao. Quân Địch Thanh vượt qua ải Côn Lôn, Trí Cao đem quân chặn đánh, hai bên giáp chiến ở phố Quy Nhân. Trí Cao thất bại, kéo quân về thành Ung Châu, đốt doanh trại, rút quân ra khỏi thành, chạy về Đại Lí (Vân Nam) rồi bị bắt.
Khi bắt đầu thất bại, Trí Cao có sai Lương Châu sang nhà Lý cầu viện. Thái Tông lúc này lại muốn kiềm chế thế lực của quân Tống, nên đã sai chỉ huy sứ là Vũ Nhị đem quân cứu viện Trí Cao, nhưng vẫn thất bại. A Nùng chạy về đạo Đặc Ma (nay là Văn Sơn ở Vân Nam) cùng với Nùng Hạ Khanh tụ tập tàn quân hơn 3 ngàn người nổi dậy. Dư Tĩnh đem quân tập kích vào Đặc Ma, bắt được A Nùng, em Trí Cao là Trí Quang và hai con của Trí Cao là Kế Tông và Kế Phong đem về kinh đô Tống.
Về lịch sử đấu tranh là bảo vệ Tổ quốc, trong đó có công cuộc xây dựng và giữ vững biên giới, một trong những công lao lớn của nhà Lý là đã ra sức củng cố và bảo vệ vững chân miền biên giới phía bắc (Việt Bắc và Đông Bắc). Nhà Lý đã vận dụng chính sách vừa mềm dẻo vừa kiên quyết nên đã thành công trong công việc lôi kéo, ràng buộc các thủ lĩnh Tày. Họ đã cùng với triều đình bảo vệ và giữ vững toàn vẹn cương thổ phía bắc của Tổ quốc.
7. Chiến tranh với Chămpa
Sau cuộc tấn công của Lê Hoàn, triều đình Chămpa quyết định dời đô vào Vigiaya (Trà Bàn, Bình Định). Một triều đại mới ra đời. Khi triều Lý bắt đầu thành lập, Chămpa có sai sứ sang cống (1011). Nhưng đến năm 1020, Lý Thái Tổ đã sai con là Khai Thiên Vương và tướng Đào Thục Phụ vào đánh Bố Chánh.
Năm 1044, Lý Thái Tông đem quân tiến vào kinh đô của Chămpa là Vigiaya (Trà Bàn, Bình Định) giết vua Chăm là Xạ Đẩu, bắt 30 voi, 5.000 người, chém giết đến 3 vạn người, bắt nhiều cung nhân và vũ nữ. Bị thất bại nặng nề, Chămpa bề ngoài phải thần phục, cống nạp nhà Lý, nhưng bên trong lại càng muốn đánh Lý để báo thù. Vào những năm 50 vua Chăm là Rudravarman III (sử ta chép là Chế Củ), thường khiêu khích Đại Việt, ra sức chuẩn bị về quân sự để chờ thời cơ đánh Đại Việt.
Từ năm 1065, Rudravarman III cắt đứt hẳn quan hệ với Đại Việt. Được nhà Tống ủng hộ, Rudravarman III càng khiêu khích Đại Việt. Năm 1068, quân Chăm xâm lấn biên giới, vượt biển tiến vào Nghệ An. Đồng thời với việc quấy phá biên giới, vua Chăm còn cử sứ đoàn sang nhà Tống cầu phong. Chính tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch đề ra kế hoạch lôi kéo Chiêm Thành và Chân Lạp ở phương Nam vào cuộc xâm lược Việt Nam. Vương An Thạch viết: “Chiêm Thành và Chân Lạp có huyết thù với Giao Chỉ (vua Tống) cần sai sứ Hứa Ngạn Tiêu và Lưu Sơ mộ bọn buôn biển dăm ba người đi dụ vua các nước này cùng tham dự vào việc (đánh Giao Chỉ), cùng hiệp lực với Vương sư (chỉ quân Tống) công thảo. Sau khi bình định sẽ phong thưởng tước”.
Vào cuối những năm 60, tình hình trở nên nghiêm trọng, để dẹp nguy phương Nam, phòng họa phương Bắc, Lý Thánh Tông quyết định đánh Chămpa. Ngày 24 tháng 2 năm 1069, Thánh Tông hạ chiếu thân chinh. Quân số lên tới 5 vạn, toàn đi Đường thủy, số thuyền đến vài trăm. Trong cuộc xuất chinh này, Lý Thường Kiệt làm đại tướng quân đi tiên phong và kiêm chức nguyên soái.
Kết thúc chiến tranh, vua Chăm Rudravarman III phải cắt 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị) cho nhà Lý để được tha về.