Tài liệu: Khởi nghĩa Yên Bái và những cố gắng cuối cùng của Việt Nam quốc dân Đảng

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo Tổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mãi với quân thù.
Khởi nghĩa Yên Bái và những cố gắng cuối cùng của Việt Nam quốc dân Đảng

Nội dung

Khởi nghĩa Yên Bái và những cố gắng cuối cùng của Việt Nam quốc dân Đảng

1. Khởi nghĩa Yên Bái

Từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Badanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận của VNQDĐ đang mấp mé bên bờ vực thẳm.

Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo Tổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mãi với quân thù. Từ cách nhìn nhận đó, Nguyễn Thái Học đã quyết định triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc của VNQDĐ ngày 17-9-1929 tại Lạc Đạo (Hải Dương) để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi sự. Trong hội nghị này, xuất hiện hai phái: Phái cải tổ[1] phái khởi nghĩa. Phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu chiếm ưu thế trong hội nghị. Tiếp theo hội nghị đại biểu toàn quốc, VNQDĐ còn tổ chức một cuộc họp nữa ở Bắc Ninh để hoạch định thời gian và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã được thống nhất, VNQDĐ sẽ tổ chức khởi nghĩa ở các nơi và cùng lúc đánh vào các đô thị lớn là những trung tâm quân sự của Pháp. Lực lượng khởi nghĩa chủ yếu gồm anh em binh lính là người của Đảng trong quân đội của Pháp, đồng thời phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí một phần do các cơ sở của Đảng chế tạo, phần còn lại phải cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa ấn định vào ngày 9-2-1930. Theo phân công của Đảng, Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng: Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An; còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm tổ chức cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh trung du Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái.

Sau hai hội nghị ở Lạc Đạo và Bắc Ninh, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai và đẩy mạnh ở các địa phương. Các xưởng chế bom được lập ra tại các tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Hải Dương, và đã sản xuất được hàng nghìn quả bom xi măng. Ngoài ra, VNQDĐ còn tổ chức rèn dao, kiếm, mã tấu và đưa đi cất giấu ở những nơi kín đáo chờ ngày khởi sự. Các cơ sở may cờ, quân phục và in truyền đơn cũng làm việc liên tục ngày đêm.

Giữa lúc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được tiến hành khẩn trương thì một số biến cố đã xảy ra, gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của VNQDĐ. Điển hình là vụ nổ bom do sơ suất khi chế tạo đã làm chết 3 đảng viên VNQDĐ ở Bắc Ninh (ngày 3-9-1929), và nhất là vụ phản bội của Phạm Thành Dương (tức Đội Dương) ngày 25-12-1929 tại hội nghị Võng La (Phú Thọ). Những sự cố này đã buộc Pháp cảnh giác, tăng cường các cuộc lùng sục, khủng bố, đẩy VNQDĐ đến nguy cơ khởi nghĩa non.

Để đối phó với tình hình, ngày 26-1-1930, Nguyễn Thái Học lại triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phân tích tình hình của Đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét: “Đảng chúng ta (tức VNQDĐ - TG) có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam. Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân”[2].

Căn cứ vào kết quả chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương, Nguyễn Thái Học đã bàn bạc với các đồng chí, quyết định hoãn thời gian khởi nghĩa tại ba tỉnh miền xuôi đến ngày 15-2-1930.

Đúng như kế hoạch đã định, đêm ngày 9 rạng ngày 10-2-1930, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính cơ số 5 và 6, giết được một số sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp. Nhưng họ vẫn không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh, và không làm chủ được tình hình chiến sự ở Yên Bái.

Sáng ngày 10-2, Pháp tập trung lực lượng (có máy bay yểm trợ) tổ chức phản công chiếm lại các căn cứ bị mất, đẩy nghĩa quân vào tình trạng tan rã.

Tại Lâm Thao (Phú Thọ), nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phạm Nhận đã nhất loạt nổ súng và nhanh chóng chiếm được huyện đường. Tri phủ Đỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Nghĩa quân treo cờ và đốt lửa báo tin thắng lợi.

Cũng đêm 9-2-1930, Nguyễn Khắc Nhu dẫn một toán nghĩa quân đến đánh độn Hưng Hóa, nhưng không đạt kết quả. Sáng hôm sau, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công quyết liệt, quân khởi nghĩa bị đánh tan, Nguyễn Khắc Nhu bị thương sau đó bị bắt, rồi tự sát để giữ tròn khí tiết.

Tại Sơn Tây, cuộc tấn công đánh đồn chùa Thông cũng không giành được thắng lợi do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Sáng ngày 10-2, người phụ trách cuộc khởi nghĩa ở đây là Phó Đức Chính đã bị bắt.

Sau khi các cuộc nổi dậy ở các tỉnh miền ngược do Nguyễn Khắc Nhu đã thất bại thì tại các tỉnh miền xuôi kế hoạch khởi nghĩa mới bắt đầu được triển khai. Đêm ngày 14 rạng 15 tháng 2 năm 1930, VNQDĐ đã nổi dậy khởi nghĩa ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình), nhưng đều không thu được kết quả.

Tại Vĩnh Bảo, dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu, nghĩa quân đã từ Cổ Am kéo lên đánh phá huyện đường, giết tri huyện Hoàng Gia Mô, rồi tự giải tán. Ở Phụ Dực nghĩa quân đánh chiếm phủ huyện, đốt hết giấy tờ sổ sách, sau đó tự giải tán.

Tại Kiến An, do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp đã tức thời bắt giam toàn bộ số lính khố đỏ, và tổ chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể khởi nghĩa thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán trước khi bị quân Pháp phản công.

Riêng ở Hà Nội, ngay đêm nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên là (10-2), một số đảng viên VNQDĐ (đều là học sinh trường Bách Nghệ) đã ném bom vào nhà tên Giám đốc Sở mật thám Ácnu (Arnoux ), vào nhà tù Hỏa Lò và Sở cảnh sát. Nhưng các vụ ném bom này ít gây tổn hại cho Pháp, không có tiếng vang lớn trong dân chúng.

Như vậy, chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do VNQDĐ phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả (do công tác tổ chức thiếu chu đáo, “kế hoạch rất chủ quan”[3], còn Pháp thì đang mạnh), nhưng đã có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại Thủ đô Paris (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ VNQDĐ.

Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân VNQDĐ đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gắt.

Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam[4].

Đồng chí Lê Duẩn - nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Khởi nghĩa Yên Bái chỉ là một “cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi. Khẩu hiệu “Không thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”.

Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, VNQDĐ hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, “trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo”.

2. Chính sách khủng bố của thực dân Pháp và những cố gắng cuối cùng của “Phái cải tổ” trong VNQDĐ

Để trả thù hành động yêu nước của các chiến sĩ VNQDĐ - mặc dù cuộc: khởi nghĩa đã thất bại: chính quyền thực dân và thực hiện một chiến dịch khủng bố tàn khốc đối với các tầng lớp nhân dân ta. Các đảng viên và những người có liên quan tới VNQDĐ bị truy lùng gắt gao, trong đó có hàng ngàn người bị bắt. Ngày 14-2-1930, Toàn quyền Đông Dương Paxkiê (P. Pasquier) đã ra Nghị định thành lập Hội đồng đề hình và cử Thanh tra hành chính Bắc Kì Ôdiê (Poulet Osier) phụ trách. Qua nhiều phiên họp, Hội đồng đề hình đã kết án 1086 người, trong đó 80 người bị xử tử hình, 594 người bị phạt tù nặng.

Tàn bạo hơn nữa là vào trưa ngày 16-2, thực dân Pháp đã cho 5 máy bay tới Vĩnh Bảo, ném bom và xả đạn súng máy xuống làng Cổ Am làm cháy trụi hết nhà cửa và giết hại 21 người dân. Tiếp đó, thực dân Pháp còn đưa lính đi khủng bố và tàn sát dã man nhân dân ở những làng đã từng có phong trào VNQDĐ phát triển mạnh, như Đồng Tải, Phong Cầu (Kiến An), Võng La, Sơn Dương (Phú Thọ)... Ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (xã Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương) và bị đưa về giam tại Hỏa Lò Hà Nội. Ngày 23-3, ông bị đưa ra xét xử và bị khép án tử hình. Gần 3 tháng sau, vào ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học cùng 12 chiến sĩ trung kiên của VNQDĐ đã bị xử chém tại thị xã Yên Bái.

Trong những ngày chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa Yên Bái, phái “cải tổ” của VNQDĐ nằm “án binh bất động”. Họ chủ trương kéo dài thời gian xây dựng lực lượng, tiến tới cải tổ lại Đảng cho thật vững chắc rồi mới tiến hành khởi nghĩa.

Vì vậy, ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, phái “cải tổ” do Lê Hữu Cảnh đứng đầu đã nhanh chóng bắt liên lạc với các đảng viên còn lại, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để cải tổ lại Đảng. Tại một cuộc họp do Lê Hữu Cảnh triệu tập với sự tham gia của Nguyễn Xuân Huân, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đức Lâm, Phạm Văn Hể, phái “cải tố” đã quyết định bầu lại Tổng bộ mới, và xây dựng kế hoạch phát triển cơ sở Đảng ở các địa phương. Do đó, các cơ sở VNQDĐ được phục hồi khá nhanh ở các tỉnh Vĩnh Yên, Hải Dương.

Tuy nhiên, phương thức hoạt động của phái này vẫn không có gì thay đổi so với trước. Họ chủ yếu tổ chức các vụ ám sát, tống tiền, gây hoang mang, kinh sợ trong bọn thực dân, chớ không coi trọng công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân. Điển hình là các vụ ám sát hụt Toàn quyền Paxkiê, Tổng đốc Vi Văn Định, vụ xử tội phản bội của Phạm Thành Dương v.v...

Để tiêu diệt nốt những cố gắng cuối cùng của VNQDĐ “cải tổ”, thực dân Pháp càng ra tay đàn áp. Cuối tháng 6 năm 1930, cơ quan Tổng bộ bị phá vở, Lê Hữu Cảnh bị bắt. Đầu năm 1981, một thành viên khác của phái “cải tổ” là Vũ Tiến Lữ đã liên lạc với một số đảng viên của Đảng ở Hà Nội, Hải Phòng, dự định sẽ tiến hành tổ chức lại VNQDĐ. Nhưng trước sự truy lùng gắt gao của thực dân Pháp, kế hoạch này cũng không thực hiện được. Sau này, hoạt động của phái “cải tổ” vẫn còn được duy trì ở một vài vùng thuộc tỉnh Hải Dương. Tại những nơi này, các đảng viên tiếp tục chế bom và tiến hành các vụ ám sát, tống tiền để tạo nguồn tài chính cho công cuộc phục hồi lại Đảng. Mãi đến cuối năm 1982, những cố gắng cuối cùng của phái “cải tổ” trong VNQDĐ mới hoàn toàn bị dập tắt.

Có thể nói vai trò của Việt Nam quốc dân đảng trong phong trào dân tộc trên thực tế đã chấm đứt từ sau khởi nghĩa Yên Bái. Còn những hoạt động sau đó của các đảng viên thuộc phái “cải tổ” trong Việt Nam quốc dân đảng chỉ là những âm hưởng cuối cùng của một tiếng chuông đã tắt. Sau này, một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng chạy sang Trung Quốc đã biến chất, trở thành tay sai của nước ngoài, rồi được đưa về nước để chống phá phong trào cách mạng của nhân dân ta.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4648-02-633921700515466250/Phong-trao-dan-toc-Viet-Nam-tu-1925---193...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận