Cố đô Luang Prabang
Trải qua bao năm,Luang Prabang, cố đô của Lào, đã chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử. Tuy vậy, giá trị vật chất và tinh thần của nó vẫn trường tồn theo thời gian.
Giờ đây với xu hướng phát triển du lịch ngày càng mạnh thành phố nhỏ và rất đẹp này đang có những thay đổi. Số lượng xe hơi và xe máy tăng hơn trước đây, tuy vậy xe đạp vẫn là phương tiện đặc trưng, thuận lợi nhất trong việc đi lại. Sự phát triển của các khách sạn cũng đã được quản lý một cách chặt chẽ qua việc chuyển đổi một số dinh thự hoàng gia xưa và nhà của các doanh thương người Hoa thành những khách sạn nhỏ và rất đẹp. Chất lượng của những khách sạn này ngày càng được cải thiện mà không hề gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường xung quanh.
Sự hấp dẫn của cố đô Luang Prabang cũng xuất phát từ cảnh sống hàng ngày rất đỗi bình thường: ánh lửa hồng bùng lên từ những thanh củi đốt và cảnh những nhà sư trong những chiếc áo tu màu vàng chầm chậm đi khất thực.
Ngoài vẻ đẹp của thành phố, ẩn trong những dãy núi ở Nam Lào là một mũi đất mà một bên là dòng Mêkông, bên kia là nhánh sông Nam Khan với cảnh sắc cực kỳ hấp dẫn và chưa hề bị ô nhiễm. Nhà thám hiểm đồng thời là nhà tự nhiên học người Pháp thế kỷ XIX, ông Henri Mohount đã miêu tả thành phố này là một thiên đường ''có ánh nắng rực rỡ của miền nhiệt đới và nếu cái nắng giữa trưa quá nóng thì cũng dịu bớt đi rất nhiều vì những cơn gió nhẹ dịu mát thổi về''.
Hiện nay du khách có thể dễ dàng đến ''thiên đường cuối cùng'' này bằng các chuyến bay xuất phát từ Bangkor. Trước đây, du khách phải bay đến Vientiane và sau đó bắt những chuyến bay nội địa. Thêm vào đó du khách cũng có thể đi trên những con thuyền nhỏ xuôi dòng Mêkông từ Chiang Sen, ở phía Bắc Thái Lan để đến Luang Prabang.
Luang Prabang được xây dựng như là một trung tâm quyền lực chính của vương quốc Lan Xang vào năm 1353. Vào thế kỷ XVI thủ đô được chuyển đến. Vientiane, nhưng thành phố này vẫn bảo tồn được địa thế của nó như là một cái nôi của nền văn hóa đa dạng của Lào. Luang Prabang còn là nơi bảo tồn di sản những thành tựu về nghệ thuật và kiến trúc. Các kiệt tác kiến trúc như Wat Xiengthong, điện thờ hoàng gia cổ xưa được xây dựng vào năm 1560 và Wat May với những mái ngói lợp dày năm tầng, là hai trong nhiều lăng mộ tuyệt đẹp có những đường nét kiến trúc và những chi tiết trang trí tuyệt vời. Tường của điện thờ Wat May được phủ bằng một lớp nhựa thể hiện một niềm tin về câu chuyện hóa thân của Đức Phật, trong khi Wat Xiengthong lại có những tác phẩm chạm khắc trên gỗ và trang trí rất phong phú.
Một thắng cảnh khác nữa là Wat Vixum, được xây dựng năm 1513 và sau đó được xây dựng lại vào năm 1898. Ở đây thờ bức tượng Phật lớn nhất Luang Prabang. Trong cùng quần thể kiến trúc này còn có Ta Mak Mo nổi tiếng vì kiến trúc hình bán cầu tuyệt vời.
Du khách tới đây có thể leo lên 328 bậc thang của Phousi (khối đá đặt trên đỉnh chùa ở trung tâm Luang Prabang). Những đài tưởng niệm tôn giáo ở đây rất nhỏ nhưng hình dáng rất đẹp. Một trong những mái nhà của thành phố mà du khách có thể nhìn thấy từ trên Phousi là lăng mộ hoàng gia ngày xưa-một kiến trúc hình thập tự đôi rất ấn tượng trong sự kết hợp giữa những chi tiết kiến trúc khéo léo tinh vi của Lào và Pháp. Giờ đây những lăng mộ này đã trở thành viện bảo tàng với nhiều hiện vật quý.
Bên kia sông cũng có những lăng mộ như Wat Long Khoăm, xây dựng từ thế kỷ XVIII và được phục hồi vào năm 1995 và lăng Wat Chum Phet tọa lạc trên đỉnh đồi. Đi về hướng Nam Luang Prabang chỉ khoảng 30km du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng thác nước Kuang Si tuyệt đẹp. Du khách cũng có thể ngồi trên con thuyền gỗ lên thượng nguồn đến những hang ờ Pan Ou-nơi có hai động lớn thờ Đức Phật Tổ, đặc biệt là động Tham Ting với hàng trăm bức tượng Phật cổ tạo nên bầu không khí tôn giáo đầy uy nghiêm.
Từ trên cao nhìn xuống, Luang Prabang như một hòn đảo biệt lập nép mình bên bờ sông Mêkông hùng vĩ nơi giao thoa với con sông Nậm Khăn. Nét đặc trưng của Luang Prabang - là Phou Si một quả đồi được bao phủ bằng thảm thực vật đa dạng và phong phú. Ngự chót vót trên đỉnh Phou Si là một ngôi chùa nhỏ được dát vàng mà sự nổi tiếng vượt xa so với dáng vẻ thực tế khi nhìn ngôi chùa từ đằng xa hay nhìn từ trên không xuống. Dưới chân Phou Si là những ngôi nhà ẩn mình dưới những vòm cây cao đã trưởng thành. Chỉ có Cung Điện cổ và mái hiên thiếp vàng của một số ít những ngôi đền ở đây là vươn cao khỏi ngọn cây, lấp lánh trong nắng vàng.
Luang Prabang một thời đã là kinh đô của Lào. Từ Vientiane, chỉ có một con đường duy nhất dài 200 km cắt ngang qua những dãy núi cao sừng sững phải đi mất hai ngày đường mới tới nơi. Trên đường phố Luang Prabang rất hiếm thấy phương tiện xe mô tô hai bánh mà chủ yếu là loại xích lô máy rất thịnh hành và trở thành một thứ ''tắc xi'' nơi đây. Rời xa những khu vực ồn ào chen chúc, dường như sự thanh bình, yên ả vẫn ngự trị ở Luang Prabang cho dù các triều đại vua chúa giờ đây không còn nữa.
Thế kỷ thứ XIV, khởi nguyên của thành phố này là một vương quốc có niên hiệu Lan Xang do Vua Fa Ngum lập nên. Ông được người cha vợ có gốc Khơ-me tặng một Prabang - pho tượng Phật bằng vàng ở tư thế đứng. Kể từ đó, thành Phố này đã mang tên Luang Prabang - thành phố Hoàng gia của Prabang. Hiện nay, pho tượng Prabang vẫn còn được lưu giữ trong cung điện. Những hiện vật được trưng bày trong đó là các tượng Phật lấy từ các tu viện và từ những toà tháp chứa hài cốt các vị sư tổ, những món quà dâng tặng vua của các vị công sứ người Mỹ, và những bức họa của các vị vua, hoàng hậu, hoàng tử triều đại cuối cùng.
Điểm ấn tượng nhất trong cung điện này ở chiếc ngai vàng lộng lẫy dành cho lễ lên ngôi của vị hoàng đế cuối cùng. Rất hiếm người dân Lào được nhìn thấy nội cung, những gì được coi là khác hẳn với cuộc sống đời thường quanh hoàng cung. Tuy nhiên, những dinh thự rộng lớn trong hoàng cung lại được bài trí đồ đạc giản dị đến khó tin.
Luang Prabang còn được coi là một trung tâm tôn giáo. Một điều hết sức đặc biệt là vào mùa mưa, nhiều thanh niên Lào đã trở thành sư trong thời gian 3 tháng. Họ mặc những chiếc áo cà sa và mang những chiếc ô vàng khi tản bộ trên những nẻo đường yên ả của Luang Prabang.
Dân số Luang Prabang gồm khoảng 20.000 người gồm các dân tộc thiểu số của Lào như Thái Dum hay Thái đen. Sở dĩ gọi như vậy là vì trang phục truyền thống của họ là mặc quần áo màu đen. Ngoài ra còn có một nhóm người dân tộc Hmông quần tụ tại một ngôi làng ở vùng biên của đất nước này. Phía trước, Santi Jedi hay còn gọi là Chùa Hoà Bình có một ngôi làng của người Luang Prabang. Họ thường dệt nên những sợi với nhiều màu sắc cầu kỳ và họ có thói quen thích nói 4 hoặc 5 thứ ngôn ngữ khác nhau khi buôn bán hàng hoá với mọi người để vừa giới thiệu tính hơn hẳn của sản phẩm của họ, lại vừa giữ được bí quyết. Santi Jedi có kiến trúc hiện đại với một phòng trưng bày các bức tranh có ý nghĩa như sự thử thách đối với con người trong cuộc sống hiện tại và mong đợi những điều lớn lao hơn khi sang thế giới ''bên kia''.
Từ Luang Prabang đi bằng tàu trong hai tiếng, du khách có thể nhìn thấy những vách đá với cao sừng sững vươn tới một điểm nơi sông Mêkông được hợp nhất bởi ngọn núi Nam Ou. Những vách đá cheo leo này như đang mời gọi lòng dũng cảm của những người thợ leo núi đá. Đối diện với núi Nam Ou là những hang động Pak Ou mà trải qua nhiều thế kỷ, vầng hào quang của Phật như được tạo ra từ hai chiếc hang gần đó. Chúng chứa đựng hàng ngàn điều thần bí và nhiều hang động mang phong cách rất ''Lào'' kiểu như ''gọi nước'' (calling the waters). Du khách có thể bò qua một đường đi dốc đứng trong hang theo những luồng cát xoắn lại như hình con rắn và hy vọng tìm được một chỗ trống để có thể ngủ qua đêm.
Khi ánh mặt trời lên, hoàng hôn dần xuống dòng sông Mêkông nghĩa là một ngày đã kết thúc. Từng đám khói bốc lên từ bếp than của các gia đình đang nấu bữa cơm chiều lan qua những tán lá cây. Những chú gà trống choai không có khái niệm về thời gian phải về chuồng, và cả những con quạ bay ngang đường lúc chạng vạng tối. Tất cả như muốn nói rằng, sự thanh bình luôn hiển hiện tại Luang Prabang, ít nhất cho tới khi một tuyến đường nhựa được mở và người ta không còn phải vượt qua núi vất vả như hiện nay. Và cũng là để đưa Luang Prabang đến gần hơn với Vientiane.