Nguyên tắc phân loại về con người
Vì vậy, con người hiện đại ngày nay bao gồm vô số những đặc điểm khác, thường có thể đo đạc, phân tích, chụp bằng tia X quang và những thứ tương tự như vậy về vô số những đặc thù cơ thể. Khi có được sự nhận dạng cá nhân (tên, tuổi, số liệt kê, số bảo hiểm xã hội), tức là con người có chỉ danh cấp một N1. Ngay sau đó, mỗi người lại được nhận dạng như là một típ của một loại nhóm nào đó, như vậy họ đã được đặt vào nhóm (chỉ danh cấp hai N2). Tất cả những người được xem như là một típ người riêng biệt nào đó xếp chung với nhau thành một nhóm đã được phân loại (chỉ danh cấp ba N3). Khi nhóm phân loại này được in xem như thuộc về một hạng người trong hệ thống thứ bậc của giống người, nghĩa là nhóm này đã có một chỉ danh trong số các chỉ danh thứ tư N4 (hạng mục thứ bậc) liên hệ đến những giống người khác cùng cấp độ, cũng như với những họ thứ bậc trên và các chủng loài thứ bậc dưới.
Các nhà động vật học và những nhà nhân chủng tự nhiên học sử dụng các mẫu tự La-Tinh cho những danh hiệu về thứ bậc như là một qui ước, chẳng hạn như hominoidea (với oidea là vị ngữ tương đương như superfamily - liên họ) và Hominidea (với vị ngữ idea tương đương như family - họ). Để đơn giản hóa phần thảo luận dẫn nhập này, chúng ta sẽ theo những ngôn từ đã được Anh hóa, tuy kém chuyên nghiệp hơn nhưng vẫn chấp nhận được như "hominoid" (giống người) và "hominid" (họ người).
Chẳng khó khăn gì trong việc xác định giới ngành, và lớp của con người. Mỗi động vật có vú rõ ràng là một thành viên trong giới động vật chứ không phải giới thực vật. Vì có hệ thần kinh nằm theo xương sống và hệ thống thần kinh nên con người thuộc ngành có dây sống. Các cột sống xương và cấu trúc liên kết của bộ xương lại đưa con người vào tiểu ngành động vật có xương sống. Việc giống cái nuôi dưỡng con bằng cách cho bú sữa mẹ lại xếp con người vào lớp hữu nhũ. Vì các bào thai phát triển ngay trong tử cung và được nuôi dưỡng trực tiếp từ dòng máu của người mẹ lại chứng tỏ rằng, con người thuộc lớp phụ thú có nhau trong nhóm động vật có nhau thai.
Trong thứ hạng của loài động vật có vú phát triển cao, các nhà phân loại đã xác định hai phụ hạng: (1) hạng dạng người bao gồm tất cả mọi giống khỉ, vượn và con người, (2) hạng bán hầu bao gồm vượn cáo, khỉ mắt cá, chuột cây - những loài phát triển sơ đẳng nhất trong loài động vật hữu nhũ.
Phụ hạng dạng người lại chia thành hai thứ hạng dưới: (1) bộ khỉ mũi hẹp (catarrhines, tiếng Hy-Lạp - kata: phía dưới + rhis, rhinos = mũi), lỗ mũi các loài khỉ ở Cựu lục địa (châu Âu, Á - ND) thường hẹp và rất gần nhau, và (2) bộ khỉ mũi tẹt (platyrrhines, tiếng Hy-Lạp- platys = rộng + rhis, rhinos = mũi), lỗ mũi các loài khi ở Tân thế giới (châu Mỹ - ND) thường dẹt và cách xa nhau. Loài người hiển nhiên thuộc bộ mũi hẹp. Và bộ mũi hẹp này lại chia thành hai siêu họ: (1) họ giống người không đuôi hominoids (người và các loài khỉ không đuôi) và (2) họ giống người có đuôi (cercopithecoids, tiếng Hy-Lạp - kerkos = có đuôi + pithekos: vượn) gồm các giống khỉ đầu chó, khỉ đuôi ngắn, khỉ mũi đỏ và khỉ châu Á. Họ không đuôi lại phân thành ba họ: (1) họ hominid - con pongid, (2) họ pongid - các giống vượn lớn, (3) họ hylobatid - vượn tay dài. Họ vượn hiện còn hai giống tồn tại: (1) lọ nồi và (2) đười ươi. Ngày nay Lọ nồi được xem như gồm ít nhất từ hai loại là tinh tinh và khỉ đột. Chủng loại đười ươi chỉ bao gồm những giống đười ươi ở hai quần đảo Borneo và Sumatra (orangutans).
Sự sắp xếp theo thứ bậc các dạng loại của các bộ có vú được trình bày khái quát trong hình 7.1 và vị trí của loài người sắp xếp trong phạm vi này cũng được nhận ra một cách rõ ràng hơn.