Phong trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ - Tĩnh
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã tác động nặng nề đến nền kinh tế Đông Dương. Nhiều nhà máy, xí nghiệp, đồn điền đã thu hẹp quy mô sản xuất. Hàng vạn công nhân bị sa thải. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động vô cùng khó khăn. Thiên tai xảy ra ở nhiều nơi. Các cuộc bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân diễn ra trên phạm vi cả nước. Từ năm 1929, hàng nghìn vụ bắt bớ diễn ra ở cả Bắc Kì, Trung Kì và Nam kì. Sau cuộc khởi nghĩa yên Bái (2-1930), thực dân Pháp đã lập Hội đồng đế hình thường trực, đưa hàng loạt chiến sĩ yêu nước lên máy chém. Lòng căm thù của các tầng lớp nhân dân Việt Nam đối với bọn thực dân, đế quốc càng sâu sắc thêm. Trong khi đó, sự phát triển của phong trào cách mạng Trung Quốc, Ấn Độ, của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, sau khi hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng của Đảng càng mạnh, tổ chức được thống nhất, cương lĩnh của Đảng được xác định rõ ràng. Đảng đã nhanh chóng tập hợp và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, hãng đầu Xôcôni (Socony), Nhà Bè (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), đồn điền cao su Phú Riềng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương.
Những cuộc đấu tranh đó là những “phát pháo hiệu” mở đầu cao trào cách mạng mới ở nước ta.
Ngoài các cuộc đấu tranh của công nhân, còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Nhân ngày kỉ niệm Lao động quốc tế 1-5, Đảng Cộng sản Việt Nam phát động một phong trào đấu tranh rộng lớn trong phạm vi cả nước.
Ở Nam Kì, công nhân nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn) và nhà máy xe lửa Dĩ An bãi công. Khoảng 10.000 nông dân huyện Đức Hòa (Chợ Lớn), hơn 1.500 nông dân huyện Cao Lãnh (Sa Đéc), 1000 nông dân huyện Chợ Mới (Long Xuyên) và nông dân các tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh, Mĩ Tho, Thủ Dầu Một biểu tình đòi bỏ sưu, hoãn thuế.
Ở Bắc Kì, công nhân khu mỏ Hồng Gai bãi công, biểu tình. Lần đầu tiên ở vùng mỏ, lá cờ đỏ búa liềm được treo trên đỉnh núi Bài Thơ.
Tại Thái Bình, nông dân hai huyện Duyên Hà và Tiên Hưng biểu tình đòi bỏ sưu, giảm thuế, đòi trả tự do cho những người bị bắt.
Ở Trung Kì, nông dân các tỉnh từ Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam đến Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh. Ngày 1-5-1980, cờ đỏ búa liềm lần đậu tiên xuất hiện ở Quảng Nam. Tại thị xã Hội An và các vùng nông thôn Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn.,. đều có rải truyền đơn, treo cờ Đảng.
Đặc biệt, sáng 1 tháng 5, công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và nông dân 5 xã ven thành phố Vinh đã biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, đòi bồi thường thiệt hại cho các gia đình bị tàn sát trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy sợi Nam Định, ủng hộ Liên Xô. Chính quyền thực dân thẳng tay đàn áp. Binh lính bắn vào đoàn biểu tình làm chết 7 người, bị thương 18 người và bắt đi 98 người. Quần chúng tiếp tục đấu tranh, tổ chức truy điệu những người đã hi sinh, tố cáo tội ác của đế quốc Pháp, đòi quyền dân sinh, dân chủ....
Các cuộc đấu tranh ngày 1-5 là một bước ngoặt của cao trào cách mạng 1930 - 1931. Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nông nước ta biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế lao động. Trong phong trào đã biểu hiện rõ vai trò lãnh đạo và tính tiên phong của giai cấp công nhân, mối liên minh giữa công nhân và nông dân. Đồng thời mục tiêu đấu tranh của họ không chỉ đòi quyền lợi cho mình mà còn biểu thị tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế giới.
Sau ngày 1-5, công nhân khu công nghiệp Vinh Bến Thủy tiếp tục đấu tranh. Ngày 9-5, công nhân nhà máy diêm bãi công. Ngày 12-5, công nhân nhà máy cưa, công nhân bốc vác Bến Thủy cũng bãi công. Ngày 31-5, công nhân nhà máy diêm lại bãi công. Công nhân các nơi khác bãi công hưởng ứng, như công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, công nhân bốc vác và phu xe thành phố Vinh... Phong trào đấu tranh lan rộng trong phạm vi cả nước. Trong tháng 5 đã nổ ra 21 cuộc đấu tranh ở Bắc Kì, 21 cuộc ở Trung Kì, 12 cuộc ở Nam Kì. Trong đó có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc của nông dân và 4 cuộc của học sinh và dân nghèo thành thị.
Thực dân Pháp phải tìm kế hòa hoãn, xoa dịu phong trào bằng cách trả tự do cho một số người bị bắt, cải thiện một ít điều kiện lao động cho công nhân, hoãn thuế cho nông dân. Trước tình hình đó, Đảng kêu gọi quần chúng không vì một vài nhượng bộ trước mắt của kẻ thù mà lơ là cảnh giác, phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh, “theo gương hi sinh của dân cày Nghệ An”, ủng hộ công nông Nghệ An.
Sang tháng 6, phong trào đấu tranh tiếp tục dâng cao. Ngày 27-6, các Công hội đỏ đã tổ chức một cuộc biểu tình phối hợp của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy diêm, nhà máy điện, nhà láy cưa đòi chủ nhà máy thực hiện các yêu sách của công nhân.
Ngày 22-8, công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, công nhân nhà máy diêm tuần hành thị uy.
Ngày 25-8, công nhân các nhà máy cưa đình công hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy diêm.
Báo Người lao khổ, cơ quan của Xứ ủy Trung Kì, số 13, ngày 18-9-1930 viết: “Cuộc tổng bãi công Bến Thủy là một thời kì mới, thời kì tranh đấu kịch liệt đã đến”.
Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ, từ các làng mạc kéo đến huyện lị, tỉnh lị: biểu tình ở Nam Đàn (6-8), Can Lộc (4-8), Thanh Chương (12-8), Nghi Lộc (29-8), Nam Đàn (30-8).
Sang tháng 9, phong trào đấu tranh lên tới đỉnh cao. Ngày 1-9-1930, 20 ngàn nông dân Thanh Chương biểu tình đòi bỏ thuế, giảm thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, nhưng những người biểu tình vẫn tiến vào huyện đường, phá nhà giam, thả tù nhân, đốt hồ sơ, sổ sách và dinh tri huyện. Bọn hào lí địa phương bỏ chạy. Hầu hết các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương trong tình trạng không có chính quyền. Nhân dân xã Võ Liệt tự động đứng ra tổ chức điều hành các công việc trong xã.
Ngày 5-9, nông dân Anh Sơn biểu tình ủng hộ nhân dân Thanh Chương với các khẩu hiệu: “Bãi bỏ thuế thân”, “Chia lại ruộng đất”, “Thả tù chính trị”... Ngày 5-9 và 7-9, nông dân Diễn Châu, Can Lộc đốt phá các nhà giam.
Từ ngày 8 đến 11-9, khí thế đấu tranh càng sục sôi. Hàng chục ngàn nông dân Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh... nổi dậy. Những cuộc xung đột đổ máu giữa những người biểu tình với cảnh sát, binh lính thực dân đã xảy ra.
Ngày 12-9, tại Hưng Nguyên, 8000 nông dân kéo đến phủ lị với những khẩu hiệu cách mạng “Đà đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến!”. Đoàn biểu tình xếp thành hàng dài hơn 1 kém kéo về thành phố Vinh, đi đầu là những người cầm cờ đỏ, đi hai bên là những đội viên tự vệ được trang bị dao, gậy. Trên đường đi, đoàn biểu tình dừng lại vài nơi để diễn thuyết và chỉnh đốn đội ngũ. Dòng người càng đi càng được bổ sung thêm, khi đến gần Vinh con số lên tới 30 ngàn người và xếp thành hàng dài tới 4km.
Thực dân Pháp đã đàn áp dã man. Chúng cho máy bay ném bom và xả súng liên thanh vào đoàn biểu tình, làm chết 217 người, bị thương 125 người, đốt cháy 277 nóc nhà. Hai làng Lộc Châu và Lộc Hải bị triệt hạ hoàn toàn.
Sự khủng bố đẫm máu của bọn thực dân không ngăn chặn được phong trào đấu tranh. Lễ truy điệu những người hi sinh ở Hưng Nguyên được tổ chức ở khắp nơi. Quần chúng phá nhà lao, đốt huyện đường, vây đồn lính khố xanh, phá trạm điện tín, trừng trị bọn địa chủ tàn ác và bọn cường hào phản động.
Bọn thực dân hoang mang trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào. Báo cáo của Moocsê (Henri Morché) viết: “Chỉ trong vòng vài tuần, chủ nghĩa cộng sản lan dần từ chỗ này đến chỗ khác, hầu như khắp các làng trong thung lũng sông Cả và đồng bằng Hà Tĩnh”. Bọn tay sai tri phủ, tri huyện, hào lí run sợ, có tên bỏ trốn, có tên tự đem nộp triện, sổ sách cho những người cách mạng. Toàn quyền Rôbanh (René Robin) viết về bọn tay sai như sau: “Họ hoàn toàn bất lực, chẳng làm được điều gì để ngăn cản sự mở rộng của phong trào. Chính quyền bản xứ thuộc mọi cấp trong tỉnh đều tê liệt, không thể nêu tên một người cầm đầu nào, không thể nhờ cậy vào một sự trợ giúp nào của các chức trách cấp tổng và xã, khiến người ta có cảm giác rằng họ đã mất hết tất cả uy quyền trên đám quần chúng mà họ cai trị.
Sự sợ hãi làm tê liệt các ông quan, các ông này khóa cổng, chui vào trong nhà và chỉ lo có mỗi một việc phòng vệ cho chính bản thân của họ. Mỗi khi các ông tri phủ, tri huyện đi tuần theo quân đội hoặc lính bản xứ, họ đi mà mình mẩy, chân tay run lẩy bẩy”.

Xô viết Nghệ - Tĩnh
Trước tình trạng chính quyền thực dân, phong kiến tan rã ở nhiều huyện, xã thuộc vùng nông thôn Nghệ - Tĩnh, các chi bộ Đảng và tổ chức Nông hội đỏ đã quản lí và điều hành mọi hoạt động trong làng xã. Những người cách mạng, dựa trên những hiểu biết sơ lược về chính quyền Xô viết nước Nga - tiếp thu được qua các tài liệu huấn luyện và báo chí của Đảng - đứng ra tổ chức và điều hành công việc. Thực chất, đó là một chính quyền cách mạng sơ khai do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Về chính trị, chính quyền mới đã ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Quần chúng được tự do hội họp, thảo luận và hoạt động trong các tổ chức đoàn thể cách mạng như Nông hội, Đội tự vệ, Đoàn thanh niên cộng sản, Phụ nữ giải phóng, Hội cứu tế đỏ...
Về kinh tế, chính quyền mới đã thi hành một số biện pháp tích cực như tịch thu ruộng đất công, lúa công chia cho dân cày nghèo, bãi bỏ các thứ thuế vô lí, bất công do bọn đế quốc phong kiến đặt ra như thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối..., thực hiện giảm tô và xóa nợ cho người nghèo.
Về văn hóa xã hội, chính quyền cách mạng tổ chức đời sống mới: mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ cho các tầng lớp nhân dân; xóa bỏ tệ nạn xã hội, các hủ tục, mê tín dị đoan; xây dựng tình thân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong quan hệ họ hàng, làng xóm.
Xô viết Nghệ - Tĩnh trở thành nguồn cố vũ mạnh mẽ quần chúng công nông trong cả nước. Khắp nơi, trong các cuộc đấu tranh, ngoài khẩu hiệu đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, còn có khẩu hiệu mang tính chính trị: ủng hộ Xô viết Nghệ - Tĩnh, ủng hộ Liên bang Xô viết.
Ở Bắc Kì, ngay tại Hà Nội, ngày 11-10-1930, đội tuyên truyền xung phong tập hợp hàng trăm người, phân phát truyền đơn, kêu gọi nhân dân ủng hộ Xô viết Nghệ - Tĩnh. Ngày 14-10, nông dân Tiền Hải (Thái Bình) biểu tình. Ngày 20-10, nông dân Bồ Đề, huyện Bình Lục (Hà Nam) đấu tranh. Cuối tháng 10, đến lượt công nhân dệt Nam Định, công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Hải Phòng đấu tranh.
Ở Trung Kì, ngày 17-10-1930 nổ ra các cuộc đấu tranh của nông dân các huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi).
Ở Nam Kì, công nhân các hãng dầu Stanđa (Standard), Têxacô (Texaco) và Pháp-Á (France Asie) bãi công. Tổng công hội Nam Kì tổ chức diễn thuyết ở Nhà Bè kêu gọi công nhân đấu tranh ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ. Nông dân Đức Hòa (Chợ Lớn), Cao Lãnh biểu tình đòi xóa bỏ thuế phụ thu, miễn tạp dịch.
Trong hai tháng 9 và 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh: Bắc Kì 29 cuộc, Trung Kì 316 cuộc, Nam Kì 17 cuộc. Trong đó hơn 20 cuộc của công nhân, hơn 300 cuộc của nông dân, hơn 10 cuộc của các tầng lớp khác.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở nước ngoài, nhưng Người theo dõi chặt chẽ diễn biến phong trào cách mạng ở trong nước. Một mặt, Người chỉ thị cho Trung ương phải nhanh chóng có kế hoạch chống địch khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ tổ chức Đảng. Mặt khác, Người gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản yêu cầu giúp đỡ. Ngày 29-9-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản. Ngày 5-11-1930, Người gửi thư cho Quốc tế nông dân. Ngày 19-2-1931, Người gửi báo cáo lên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản với nhan đề “Nghệ - Tĩnh đỏ”: Trong đó có đoạn viết: “trong thời kì Pháp xâm lược cũng như trong các phong trào cách mạng quốc gia (1905 - 1925), Nghệ - Tĩnh đã nổi tiếng. Trong cuộc đấu tranh hiện nay, công nhân và nông dân Nghệ - Tĩnh vẫn giữ vững truyền thống cách mạng của mình.
Nghệ - Tĩnh thật xứng đáng với danh hiệu “đỏ”?”
Người khẳng định: “Bom đạn, súng máy, đốt nhà, dồn binh... đều bất lực không dập tắt nổi phong trào cách mạng của Nghệ - Tĩnh”.
Phong trào cách mạng Việt Nam đã được Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sàn Pháp nhiệt tình ủng hộ.
Giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào tháng 10-1980. Chủ trì Hội nghị là Trần Phú - mới tốt nghiệp trường Đảng ở Liên Xô (4-1930) và được bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương lâm thời.
Hội nghị quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức và cử Trần Phú làm Tổng bí thư.
Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú khởi thảo.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và xứ Đông Dương, vận dụng những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, Luận cương chính trị định ra những vấn đề chiến lược, sách lược cách mạng Đông Dương.
Phần thứ nhất, Luận cương đề cập tới “Tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương”. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước cuộc tổng khủng hoảng kinh tế thế giới là thời kì ổn định tạm thời của chủ nghĩa tư bản. Bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế (1929), mâu thuẫn giữa các nước đế quốc càng trở nên gay gắt, khiến chúng “phải giành nhau thị trường rất kịch liệt, làm cho trận đế quốc chiến tranh sắp tới không sao tránh khỏi được”. Liên bang Xô viết đang trên đà phát triển là thành trì cách mạng thế giới. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nổ ra mạnh mẽ.

Trần Phú (1930)
Phong trào cách mạng Đông Dương quan hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới và góp phần mở rộng trận địa chống đế quốc trên phạm vi thế giới: “Hiện nay Đông Dương đã đem lực lượng cách mạng tham gia phong trào đấu tranh rầm rộ trong thế giới, mở rộng hàng trận công nông chống đế quốc chủ nghĩa... cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương rất có quan hệ với nhau”.
Phần thứ hai, Luận cương nêu rõ “những đặc điểm về tình hình ở Đông Dương”. Về thể chế, Đông Dương là một xứ thuộc địa của đế quốc Pháp. Về xã hội, ở Đông Dương “sự mâu thuẫn giai cấp ngày càng kịch liệt: một bên thì thợ thuyền, dân cày, và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.

Luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư của Đảng soạn thảo và thông qua tại Hội nghi Trung ương lần thứ nhất, tháng 10-1930
Về kinh tế, “kinh tế Đông Dương cũng vẫn là kinh tế nông nghiệp, mà trong kinh tế ấy thì những lối phong kiến lại chiếm địa vị trọng yếu. Tất cả những điều kiện ấy làm cho kinh tế Đông Dương không có thể pháp triển độc lập được”.
Phần thứ ba “Tính chất và nhiệm vụ cách mạng Đông Dương”, Luận cương xác định cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo. Cách mạng tư sản dân quyền là thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến mang lại ruộng đất cho dân cày. Luận cương cũng nêu rõ mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ này: “Có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”.
Động lực và vai trò lãnh đạo cách mạng được xác định rõ: “Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.
Đội tiền phong của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản. Đó là nhân tố cơ bản nhất quyết định thắng lợi của cách mạng Đông Dương. “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỉ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.
Ngoài những vấn đề về đường lối chiến lược, Luận cương chính trị còn xác định những vấn đề về hình thức và phương pháp cách mạng. Khi chưa có tình thế cách mạng, phải đưa ra khẩu hiệu “phần ít”, như tăng lương giảm giờ làm, giảm thuế, chống thuế... Qua cuộc đấu tranh hàng ngày, giáo dục ý thức cách mạng cho quần chúng, coi trọng vận động tập hợp lực lượng quần chúng. Khi tình thế cách mạng xuất hiện, Đảng phải chuyển sang các khẩu hiệu cao hơn: võ trang bạo động, đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị, giành chính quyền về tay công nông. Luận cương nhấn mạnh khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền “không phải là một việc thường”, mà là một nghệ thuật, “phải theo khuôn phép nhà binh”.
Luận cương chính trị chỉ rõ mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới. Cụ thể là “bênh vực Liên bang Xô viết”, “liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp”, “liên lạc với quần chúng cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhất là ở Trung Quốc và Ấn Độ” vv.
Luận cương chính trị năm 1930 đã xác định được những vấn đề chiến lược của cách mạng Đông Dương. Song Luận cương còn có một số mặt hạn chế, như chưa thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa nên không đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp và về cách mạng ruộng đất, đánh giá không đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và khả năng chống đế quốc, phong kiến ở mức độ nhất định của giai cấp tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một số trung và tiểu địa chủ trong mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.
Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lí luận của cách mạng Việt Nam, trang bị cho những người cộng sản Đông Dương vũ khí sắc bén để đấu tranh với các tư tưởng phi vô sản.
Những nhược điểm, hạn chế của Luận cương đã được Đảng Cộng sản Đông Dương dần dần khắc phục qua thực tiễn đấu tranh cách mạng. Thực dân Pháp khủng bố dã man phong trào đấu tranh ở Nghệ - Tĩnh, nhưng các cuộc biểu tình, thị uy của quần chúng càng trở nên quyết liệt. Trước tình hình đó, chúng tập trung lực lượng và dùng những thủ đoạn thâm độc để đối phó. Những tên thực dân đầu sỏ và tay sai khét tiếng tàn bạo được phái tới Nghệ - Tĩnh để xem xét và vạch kế hoạch đàn áp, như toàn quyền Patxkiê (Pierre Pasquier), Khâm sứ Trung Kì Lơ Phôn (Le Fol), Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Khoa Kì, Tôn Thất Đàn...
Một chương trình bình định Nghệ - Tĩnh về quân sự, chính trị, văn hóa lập tức được thi hành. Nhiều đơn vị lính khố đỏ, lính lê dương được điều đến Nghệ - Tĩnh. Lệnh thiết quân luật được ban bố. Chúng dùng thủ đoạn thâm độc “buộc dân cày ra đầu thú”, bắt nhân dân tổ chức “rước cờ vàng”, nhận thẻ “quy thuận”. Chúng ráo riết săn lùng những người cộng sản, xuất bản sách báo vu cáo chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô.
Ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc theo dõi sát sao diễn biến phong trào đấu tranh ở trong nước. Người gửi báo cáo tới Quốc tế cộng sản và Quốc tế nông dân đề nghị giúp đỡ, ủng hộ cách mạng Việt Nam. Người gửi thư cho BCHTƯ Đảng Cộng sản Đông Dương nhấn mạnh việc tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng các đoàn thể quần chúng như Công hội, Nông hội; tăng cường khối liên minh công nông; chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng trong quá trình lãnh đạo phong trào.
Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo, có những chỉ thị cụ thể cho Nghệ - Tĩnh: chỉ thị uốn nắn chủ trương không đúng đắn của Xứ ủy Trung Kì “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”; chỉ thị về “Vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh”; về phát triển các đội tự vệ công nông; về việc chống thực dân Pháp buộc dân cày ra “đầu thú”. Nhờ vậy, phong trào đã phát triển đúng hướng và tránh được nhiều tổn thất, duy trì được lực lượng. Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân cả nước đấu tranh ủng hộ và bảo vệ Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Mặc dù tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn của địch, nhưng do điều kiện bất lợi về nhiều mặt, phong trào Nghệ - Tịnh dần dần đi xuống.
Phong trào cách mạng 1930-1931 với Xô viết Nghệ - Tĩnh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa lịch sử to lớn. Phong trào đã khẳng định đường lối cách mạng Đông Dương do Đảng đề ra là đúng đắn, mở đầu cho giai đoạn cách mạng đi theo đường lối sáng tạo trên cơ sở lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phong trào đã khẳng định quyền lãnh đạo trọn vẹn của giai cấp công nhân đối với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Đông Dương, đã chứng tỏ trong thực tế bản lĩnh cách mạng và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã hình thành khối liên minh công nông và phát huy được sức mạnh to lớn của nó. “Thắng lợi lớn nhất của Đảng ta trong cao trào cách mạng năm 1930 - 1931 là Đảng đã thực hiện được khối liên minh công nông, do đó đã giành được quyền lãnh đạo cho giai cấp công nhân”.
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cách mạng 1930-1931 đã được Đảng ta tổng kết: “Thành quả lớn nhất của phong trào 1930-1931 - thành quả mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến sau đó đã không thể xóa nổi - là ở chỗ nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta, là ở chỗ nó đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản; đồng thời đem lại cho đông đảo quần chúng công nông lòng tự tin ở sức lực cách mạng vĩ đại của mình... Đó là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng. Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 - 1931, trong đó công nông đã “vung ra nghị lực phi thường của mình thì không thể có cao trào những năm 1936-1969”.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng và quần chúng cách mạng chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
30 năm sau sự kiện này, Hồ Chí Minh đã viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng Xô viết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phông trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này”.
Cao trào cách mạng 1930-1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế cộng sản đã khẳng định: “Phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sản trong cái xứ thuộc địa, nhất là các nước phương Đông”. Trong phiên họp ngày 11-4-1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản đã quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế cộng sản.