Orddu, mắt chớp chớp vẻ ngái ngủ và đầu tóc rối bù hơn bao giờ hết, bước vào chuồng gà. Theo sau mụ là hai mụ phù thuỷ kia, cũng đang mặc những chiếc áo ngủ phất phơ, tóc không búi lên mà xoã xượi xuống vai thành những đám thắt nút rối tung. Họ đã lại có vẻ bề ngoài của những mụ phù thuỷ già xấu xí, không còn chút gì giống với ba cô gái mà Taran đã thấy qua cửa sổ. Orddu giơ cao một cây nến đang kêu xèo xèo và chằm chằm nhìn nhóm bạn.
“Ôi, những con cừu non khốn khổ!” Mụ kêu lên. “Chúng đã làm chuyện gì thế này? Chúng ta đã cố cảnh báo chúng về cái vạc xấu xa, nhưng đám ngỗng con ương ngạnh này đâu có chịu nghe. Ôi trời,” mụ buồn bã tặc lưỡi, “giờ thì những ngón tay bé nhỏ của chúng đã bị dính vào đó rồi.”
“Bà có nghĩ là,” Orgoch nói với một tiếng thì thầm khàn khàn, “chúng ta nên đi nhóm lửa không?”
Orddu quay sang mụ ta.
“Thôi đi nào, Orgoch.” mụ kêu lên. “Thật là một ý nghĩ kinh khủng. Còn quá sớm để nấu bữa sáng mà.”
“Không bao giờ là quá sớm cả.” Orgoch lẩm bẩm.
“Nhìn chúng mà xem.” Orddu âu yếm nói. “Nom chúng hoảng sợ mới dễ thương làm sao! Như những con chim non chưa mọc lông vậy!”
“Bà đã chơi khăm chúng tôi, Orddu!” Taran nói lớn. “Bà biết là chúng tôi sẽ tìm thấy chiếc vạc, bà biết chuyện gì sẽ xảy ra!”
“Sao, tất nhiên là chúng ta biết, gà con của ta ạ.” Orddu dịu dàng đáp. “Chúng ta chỉ tò mò muốn tìm hiểu xem các con sẽ làm gì khi tìm thấy nó. Và giờ thì các con đã tìm thấy nó, và chúng ta đã biết rồi!”
Taran tuyệt vọng cố vật lộn để tự giải thoát mình. Dù khiếp sợ, cậu vẫn ngẩng cao đầu và nhìn thẳng vào Orddu vẻ thách thức.
“Nếu muốn thì hãy giết chúng ta đi, đồ phù thuỷ độc ác!” cậu kêu lên. “Phải, chúng ta sẽ lấy trộm chiếc vạc và phá huỷ nó! Và ta sẽ cố gắng làm thế chừng nào còn sống!” Taran điên tiết lao mình vào chiếc vạc trơ ì và một lần nữa lại vận hết sức một cách vô ích để đẩy nó đi.
“Tôi rất thích ngắm chúng nổi giận, bà có thấy thế không?” Orwen thì thầm hỏi Orgoch một cách thích thú.
“Cẩn thận đấy,” Orddu khuyên bảo Taran, “cứ quẫy đạp như thế thì con chỉ sẽ tự làm mình đau thôi. Chúng ta tha lỗi cho con vì đã gọi chúng ta là đồ phù thuỷ độc ác.” mụ khoan dung nói. “Con đang tức giận, chú gà con tội nghiệp, và có thể nói ra bất kỳ điều gì.”
“Các bà là những kẻ xấu xa!” Taran thét lên. “Các bà muốn làm gì chúng tôi cũng được, nhưng sớm muộn gì các bà cũng sẽ bị lật đổ. Gwydion sẽ biết chuyện gì đã xảy ra với chúng tôi. Và thầy Dallben…”
“Đúng, đúng thế!” Gurgi cũng gào lớn. “Họ sẽ tìm thấy các bà, ồ, đúng vậy! Và sẽ tấn công và trừng phạt các bà!”
“Những con gà tơ của ta,” Orddu đáp, “các con vẫn chưa hiểu sao? Xấu xa ư? Lạy trời phù hộ những trái tim bé nhỏ của các con, chúng ta không xấu đâu.”
“Tôi không gọi thế này là “tốt” đâu.” Chàng ca sĩ lẩm bẩm. “Ít ra là nếu xem xét từ phía cá nhân tôi.”
“Tất nhiên là không rồi.” Orddu đồng ý. “Chúng ta không tốt cũng không xấu. Chỉ đơn giản là chúng ta thích mọi việc như hiện trạng của chúng mà thôi. Và hiện trạng của mọi việc lúc này thì có vẻ như các con đã bị dính vào chiếc vạc rồi.”
“Và các bà không thèm quan tâm!” Eilonwy nói lớn. “Như thế còn tệ hơn cả xấu xa nữa!”
“Chắc chắn là chúng ta có quan tâm chứ, con thân yêu.” Orwen dịu dàng nói. “Chỉ có điều chúng ta không “quan tâm” theo cùng một cách như các con, hay đúng hơn, “quan tâm” là một tình cảm chúng ta không thể có được.”
“Thôi nào,” Orddu nói, “đừng bận óc vì những chuyện như thế nữa. Ta cứ đứng đây nói mãi trong khi bọn ta có tin vui cho các con đây. Hãy đem chiếc vạc ra ngoài đi, trong này ngột ngạt lắm, và toàn mùi trứng, rồi chúng ta sẽ cho các con biết. Đi nào.” mụ nói thêm, “Giờ thì các con có thể nhấc nó lên rồi đấy.”
Taran ném cho Orddu một cái nhìn nghi ngờ, nhưng đánh liều dồn sức vào chiếc vạc. Nó nhúc nhích, và cậu cũng nhận thấy tay mình đã gỡ ra được. Một cách vất vả, nhóm bạn xoay xở nhấc chiếc vạc nặng trịch lên và đem nó từ chuồng gà ra.
Bên ngoài, mặt trời đã mọc. Khi nhóm bạn đặt chiếc vạc xuống đất và vội vã lùi ra, những tia n ắng buổi bình minh biến lớp sắt đen thành màu đỏ ối như máu.
“Được rồi, giờ thì như ta đã nói ban nãy,” Orddu nói tiếp, trong khi Taran và các bạn xoa bóp những cánh tay và bàn tay đau nhức, “chúng ta đã bàn bạc và đồng ý – ngay cả Orgoch cũng đồng ý - rằng các con có thể có được cái vạc nếu các con thực sự muốn nó.”
“Các bà để cho chúng tôi đem nó đi ư?” Taran kêu lên. “Sau tất cả những gì các bà đã làm sao?”
“Đúng vậy.” Orddu trả lời. “Chiếc vạc này hoàn toàn vô tích sự - ngoại trừ để sinh ra bọn Vạc Dầu. Arawn đã làm hỏng nó, không còn dùng vào việc gì khác được nữa, các con cũng có thể tưởng tượng ra đấy. Thật đáng buồn, nhưng việc đã rồi. Và ta xin đảm bảo với các con rằng lũ Vạc Dầu là những sinh vật sau rốt trên thế giới này chúng ta muốn thấy quanh đây. Chúng ta đã quyết định rằng cái vạc chẳng là gì ngoài một thứ phiền phức đối với chúng ta. Và, bởi vì các con là bạn của Dallben...”
“Các bà chịu trao chiếc vạc cho chúng tôi sao?” Taran kinh ngạc mở lời.
“Rất vui sướng đa tạ các bà.” Chàng ca sĩ nói.
“Từ từ đã nào, đàn vịt con của ta.” Orddu ngắt lời. “Trao chiếc vạc cho các con ư? Ôi, trời ạ, không! Chúng ta không tự nhiên trao cái gì cho ai cả. Chỉ có thứ gì tự mình giành được thì mới đáng được hưởng. Nhưng chúng ta sẽ cho các con một cơ hội để mua lại nó.”
“Chúng tôi không có của cải gì để đem ra thương lượng cả.” Taran buồn nản nói. “Than ôi, chúng tôi hoàn toàn không có.”
“Chúng ta không thể mong các con có thể trả giá đắt như Arawn được.” Orddu đáp, “Nhưng chúng ta dám chắc các con có thể tìm được một thứ gì đó để đem ra đổi. Ờ… để xem… ngọn Gió Bắc trong một cái túi được không?”
“Gió Bắc!” Taran thốt lên. “Không thể được! Sao các bà lại có thể mơ đến chuyện…”
“Tốt thôi,” Orddu nói, “chúng ta không cần cầu kỳ lắm đâu. Gió Nam cũng được. Nó ấm áp và dễ chịu hơn nhiều.”
“Các bà đang chế nhạo chúng tôi ư?” Taran giận dữ kêu lên. “Cái giá mà các bà đòi hỏi vượt quá sức bất kỳ ai trong số chúng tôi.”
Orddu ngần ngừ.
“Có lẽ các con nói đúng.” mụ thừa nhận. “Ờ, thế thì thứ gì riêng tư hơn vậy. Ta nghĩ ra rồi!” Mụ nói mỉm cười với Taran. “Hãy cho chúng ta – hãy cho chúng ta ngày hè thú vị nhất mà con có thể nhớ được! Con không thể nói điều đó là quá sức được, vì nó thuộc về con mà!”
“Đúng vậy.” Orwen hăng hái nói. “Một chiều hè tuyệt đẹp, rực nắng và đầy những mùi hương êm ái.”
“Không có cái gì ngọt ngào hơn,” Orgoch lẩm bẩm, hít hà qua kẽ răng, “so với buổi chiều hè của một con cừu non.”
“Làm sao tôi có thể cho các bà thứ ấy được?” Taran phản đối. “Hay bất kỳ ngày nào khác, khi mà chúng… chúng nằm trong người tôi? Các bà không thể lấy nó ra được! Ý tôi là…”
“Chúng ta có thể thử xem.” Orgoch lẩm bẩm.
Orddu kiên nhẫn thở dài. “Được rồi, các chú ngỗng nhỏ của ta. Chúng ta đã đưa ra những gợi ý của mình, và chúng ta rất sẵn lòng nghe gợi ý của các con. Nhưng nhớ cho kỹ, để việc đổi chác được công bằng, đó phải là thứ mà đối với các con cũng quý giá ngang với chiếc vạc.”
“Tôi rất quý thanh gươm của mình.” Taran nói. “Nó là một món quà của thầy Dallben và là thanh gươm đầu tiên thực sự thuộc về tôi. Để đổi lại chiếc vạc, tôi sẵn sàng lìa bỏ nó.”
Cậu toan cởi đai gươm ra, nhưng Orddu phẩy tay vẻ thờ ơ.
“Một thanh gươm ư?” Mụ lắc đầu đáp lại. “Trời ơi, không, vịt con của ta ạ. Chúng ta đã có nhiều lắm rồi – quá nhiều là đằng khác. Và có nhiều thanh trong số chúng là những món vũ khí nổi tiếng của những chiến binh vô cùng hùng mạnh.”
“Vậy thì…” Taran ngập ngừng, “tôi xin trao cho các bà Lluagor. Nó là một con chiến mã rất cao quý.” Cậu dừng lại khi thấy Orddu nhăn mặt. “Hay là,” cậu miễn cưỡng hạ giọng nói thêm, “con ngựa của tôi, Melynlas, nó là con của Melyngar, chiến mã của chính ông hoàng Gwydion. Không có con ngựa nào chạy nhanh hay vững chân hơn nó. Đối với tôi, Melynlas quý báu hơn tất cả.”
“Ngựa ấy à?” Orddu nói. “Không, không thể được. Phải cho chúng ăn, rồi chăm sóc chúng, phiền phức lắm. Hơn nữa, với Orgoch thì cũng khó mà có vật nuôi được.”
Taran im lặng một hồi lâu. Mặt cậu tái đi khi nghĩ đến chiếc trâm cài của Adaon và bàn tay cậu chộp lấy nó như để che chở.
“Tôi chỉ có vậy thôi.” cậu chậm rãi nói.
“Không, không!” Gurgi kêu lên, chen lên đứng trước ba mụ phù thuỷ và chìa chiếc túi của mình ra. “Xin hãy lấy báu vật của Gurgi ấy! Hãy lấy chiếc túi đựng đồ nhai gặm này!”
“Thức ăn cũng không.” Orddu nói. “Không được. Người duy nhất trong bọn ta quan tâm đến thức ăn là Orgoch. Và ta chắc chắn trong cái túi của con không có thứ gì khả dĩ khiến bà ta thích thú.”
Gurgi buồn nản nhìn Orddu.
“Nhưng đó là tất cả những gì Gurgi khốn khổ có.” Nó lại chìa chiếc túi ra.
Mụ phù thuỷ mỉm cười và lắc đầu. Tay Gurgi rơi xuống bên cạnh mình; vai nó rũ xuống và nó rầu rĩ quay đi.
“Hẳn các bà thích đồ trang sức.” Eilonwy nói xen vào. Cô rút chiếc nhẫn ở ngón tay mình và đưa cho Orddu xem. “Đây là một vật rất đẹp.” Eilonwy nói. “Chính ông hoàng Gwydion đã tặng nó cho tôi. Bà có thấy viên ngọc không? Nó được chạm khắc bởi người Mỹ Tộc đấy.”
Orddu cầm chiếc nhẫn, đưa nó lên sát mắt và nheo mắt lại ngắm nghía.
“Đáng yêu, đáng yêu lắm.” mụ nói. “Rất đẹp. Cũng đẹp gần bằng con đấy, con cừu non của ta. Nhưng cổ xưa hơn nhiều. Không, ta e là không được. Chúng ta có nhiều thứ như vậy lắm. Quả thực, chúng ta không muốn có thêm nữa. Hãy giữ lấy nó, gà con của ta, một ngày kia con sẽ dùng nó vào một việc gì đó có ích, nhưng chúng ta thì chắc chắn là không.” Mụ trả chiếc nhẫn cho Eilonwy, cô buồn bã đeo nó lại vào ngón tay mình.
“Tôi còn một vật quý giá khác.” Eilonwy nói tiếp. “Cô thọc tay vào nếp áo choàng và lôi quả cầu vàng ra. “Đây.” Cô nói, xoay nó trong tay mình để nó toả ra ánh sáng rực rỡ. “Nó hay hơn một cây đèn nhiều.” Eilonwy nói. “Nó có thể khiến ta nhìn thấy mọi vật khác đi, rõ ràng hơn. Nó rất có ích.”
“Con định trao nó cho chúng ta như thế thật là đáng yêu.” Orddu nói. “Nhưng nó cũng lại là một thứ mà chúng ta không thật sự cần đến.”
“Các bà, các bà này!” Fflewddur kêu lên. “Các bà đã bỏ qua một món hời rồi đây.” Anh bước tới trước và tháo cây đàn hạc trên vai ra. “Tôi có thể hiểu tại sao chiếc túi đựng thức ăn và những thứ đại loại như vậy lại không thể khiến các bà thích thú. Nhưng tôi xin các bà hãy cân nhắc về cây đàn hạc này. Các bà chỉ có một mình trong khu đầm lầy ảm đạm này,” anh nói tiếp, “và chút ít âm nhạc đúng là thứ các bà cần. Cây đàn hạc này có thể tự chơi được.” Fflewddur nói tiếp. Anh đặt cây đàn uốn lượn tuyệt đẹp lên vai, chỉ hơi chạm vào các dây đàn, và một điệu nhạc du dương vang lên tràn ngập trong không trung. “Các bà thấy chưa?” chàng ca sĩ kêu lên. “Không phải làm gì hết!”
“Ồ, hay thật!” Orwen lẩm bẩm vẻ tiếc nuối. “Và thử nghĩ đến những bài hát chúng ta có thể hát cho vui xem.”
Orddu ngó kỹ cây đàn hạc.
“Ta thấy rất nhiều dây đàn đã bị nối lại. Chúng bị ngấm mưa nắng hay sao thế?”
“Không, không phải do mưa nắng đâu.” Chàng ca sĩ nói. “Với tôi thì chúng rất hay đứt. Chỉ khi nào tôi… khi tôi thêm thắt cho câu chuyện một chút thôi. Tôi dám chắc các bà sẽ không gặp phải rắc rối ấy đâu.”
“Ta có thể hiểu tại sao anh lại quý trọng nó.” Orddu nói. “Nhưng, nếu muốn có âm nhạc thì chúng ta có thể gọi vài con chim đến. Không, sau khi suy xét kỹ thì nó cũng chỉ thêm phiền thôi. Phải luôn lên dây cho nó giữ đúng âm và các thứ đại loại thế.”
“Các con có chắc là không còn thứ gì nữa không?” Orwen khấp khởi hy vọng hỏi.
“Chỉ có thế thôi.” Chàng ca sĩ chán nản trả lời. “Đó là tất cả rồi. Trừ khi các bà muốn cả áo choàng trên lưng chúng tôi nữa.”
“Lạy trời phù hộ các con, không đâu!” Orddu nói. “Đàn vịt nhỏ các con đi mà lại không có chúng thì thật không hay chút nào. Các con sẽ chết cóng mất. Và đến lúc đó thì có chiếc vạc cũng đâu còn tích sự gì đâu? Ta rất tiếc, những chú gà con của ta ạ.” Orddu nói tiếp. “Có vẻ đúng là các con không có thứ gì mà chúng ta thích thật. Tốt thôi, chúng ta sẽ giữ lấy chiếc vạc, còn các con hãy đi đi.”
Hết chương 14. Mời các bạn đón đọc chương 15!