Cơn sốt kéo tới, cuốn lấy cậu như một khu rừng rực lửa vô tận mà cậu phải mò mẫm bò qua; vật vã trên ổ rơm, cậu không còn biết ngày đêm gì nữa. Chốc chốc cậu lại mơ thấy những gương mặt lờ mờ, khó nhận ra, của Eilonwy, của những người bạn đồng hành của cậu, gương mặt của tất cả những người cậu đã từng thương yêu; thế nhưng những gương mặt ấy lại rời xa cậu, chuyển động và thay đổi như những đám mây bị gió thổi bạt, hoặc lại bị nuốt chửng bởi những cơn ác mộng khiến cậu kêu thét kinh hoàng. Sau đó, có lúc cậu tưởng như đã nhìn thấy Fflewddur, nhưng chàng ca sĩ đã trở nên hốc hác, mắt trũng sâu, mớ tóc vàng bết xuống trán, miệng mím chặt và cái mũi nhọn của anh dài ngoẵng như một lưỡi dao. Quần áo của anh rách rưới và vấy bẩn. Quạc đậu trên vai anh ta và kêu lên, “Taran, Taran!”
“À, phải, đã đến lúc cậu thức dậy rồi đấy,” Fflewddur nói, nhe răng cười với cậu. Bên cạnh chàng ca sĩ, Gurgi đang ngồi chồm hỗm trên một chiếc ghế đẩu gỗ và lo lắng nhìn cậu.
Taran dụi mắt, không biết mình đang ngủ hay thức nữa. Lần này thì các khuôn mặt không biến mất. Cậu chớp chớp mắt. Tấm da cừu đã được tháo xuống khỏi khung cửa sổ và ánh mặt trời đang tràn vào, chiếu lên người cậu.
“Gurgi? Quạc?” Taran lầm bầm. “Fflewddur? Chuyện gì đã xảy ra với ông vậy? Nom ông chỉ còn bằng nửa lúc trước.”
“Cậu thì không phải là người thích hợp để chê bai về hình thức đâu, anh bạn ạ.” Chàng ca sĩ bật cười. “Nếu cậu thấy được chính mình thì tôi dám chắc cậu sẽ đồng ý, rằng nom cậu còn tệ hơn cả tôi nữa.”
Vẫn còn bối rối, Taran quay sang Gurgi, nó đã sung sướng nhảy bật lên và vỗ tay.
“Cậu chủ nhân từ đã khỏe lại rồi!” Gurgi reo lên. “Cậu ấy đã khỏe lại, không còn rên rỉ than vãn nữa, không còn run rẩy vật vã nữa! Và chính Gurgi trung thành, tinh khôn đã chăm sóc cho cậu ấy!”
“Đúng thế đấy,” Fflewddur đồng tình. “Suốt hai tuần qua nó chăm bẵm cậu như một con gà mái mẹ ấy, và nếu cậu là một trong những chú cừu cưng của nó thì nó cũng không thể chăm sóc cậu cẩn thận hơn được!”
“Tôi đã phi thẳng về Caer Dallben như một mũi tên ấy,” chàng ca sĩ nói tiếp. “À-ờ-sự thật là, tôi đã bị lạc một lúc lâu; rồi sau đó trời bắt đầu có tuyết. Llyan xông qua những đống tuyết cao đến tận tai nó ấy, và rồi cuối cùng ngay cả nó cũng phải dừng lại. Chúng tôi phải trú lại trong một cái hang - Ôi Belin Vĩ Đại, tôi cứ ngỡ như tôi không bao giờ được thấy ánh sáng ban ngày nữa.” Fflewddur chỉ vào bộ y phục tả tơi của mình. “Đó đúng là một cuộc hành trình thuộc loại khiến người ta nom hơi nhếch nhác. Chưa kể đến việc chịu đói suốt ba phần tư quãng đường nữa. Chính Quạc đã tình cờ tìm thấy chúng tôi, và nó dẫn chúng tôi theo những lối đi quang quẻ hơn.
“Về phần cụ Dallben thì,” Fflewddur nói tiếp, “cụ ấy rất bực mình, bực hơn là cụ ấy muốn bộc lộ ra ngoài nhiều. Cụ ấy chỉ nói ‘Taran không phải là con trai người chăn cừu, nhưng nếu nó muốn ở lại hay ra đi thì hoàn toàn phụ thuộc vào quyền lựa chọn của nó’.“
“Và vậy là tôi đã cố gắng quay lại nhanh hết mức có thể,” chàng ca sĩ kết luận. “Than ôi, tôi không thể trở về sớm hơn.” Anh ta lắc đầu. “Gurgi đã kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.”
“Craddoc mong có một người con trai,” Taran chậm rãi đáp, “cũng như tôi mong tìm được cha mẹ vậy. Tôi băn khoăn không hiểu nếu tôi tin ông ấy thì tôi có sung sướng hơn không. Mặc dù đến hồi cuối, tôi nghĩ rằng tôi đã tin ông ấy. Gurgi và tôi đã có thể trèo đến chỗ an toàn. Nhưng vì Craddoc, tôi đã thổi chiếc tù và của Eilonwy. Nếu tôi làm vậy sớm hơn, có lẽ ông ấy đã được sống rồi. Ông ấy là một con người can đảm, nhân hậu, một con người kiêu hãnh. Giờ thì ông ấy đã mất. Tôi đã để dành tiếng gọi để dùng cho một lý do chính đáng, và khi tôi tìm được lý do chính đáng thì nó lại bị phí hoài mất rồi.”
“Phí hoài ư?” Fflewddur trả lời. “Tôi không nghĩ vậy. Bởi cậu đã cố gắng hết sức mình và không hối tiếc vì đã dùng nó, tôi sẽ không gọi nó là đã bị phí hoài đâu.”
“Còn nhiều điều mà ông không biết,” Taran nói. Cậu nhìn thẳng vào chàng ca sĩ. “Cố gắng hết sức mình ư? Mới đầu tôi đã muốn bỏ mặc Craddoc nằm lại trên gờ đá ấy.”
“Thôi nào,” chàng ca sĩ đáp, “ai mà chẳng có lúc yếu lòng. Nếu tất cả chúng ta đều xử sự như ý nghĩ của mình thì ở Prydain này sẽ xảy ra vô số điều đáng tiếc. Hãy tính đến việc làm, chứ đừng tính đến ý nghĩ.”
“Trong việc này thì ý nghĩ của tôi cũng đáng kể không kém gì việc làm,” Taran lạnh lùng nói. “Không phải là nỗi khiếp sợ đã ngăn tôi lại. Ông có muốn biết sự thật không? Tôi thấy nhục nhã vì xuất thân hèn kém, nhục nhã đến mức nó làm tôi ghê tởm. Tôi đã định để mặc cho Craddoc bỏ mạng. Phải, để mặc cho ông ấy chết đi!” Cậu bật kêu lên. “Bởi vì tôi tin rằng nó sẽ giúp tôi thoát khỏi ông ấy. Tôi nhục nhã vì phải làm con trai một người chăn cừu. Nhưng giờ thì tôi không còn cảm thấy như vậy nữa. Giờ thì tôi chỉ thấy nhục nhã vì chính mình mà thôi.” Cậu quay mặt đi và không nói gì nữa.
Nhóm bạn trải qua mùa đông trong căn lều, và từng chút, từng chút một, Taran dần lại sức. Sau đợt tuyết tan đầu tiên, khi khắp thung lũng lấp lánh đầy tuyết đang tan chảy và các dòng nước trào ra từ lòng suối đóng băng, thì Taran đứng lặng lẽ ở sân trước, ngắm nhìn những đỉnh núi xanh mờ và cân nhắc một điều cậu đã nung nấu trong lòng suốt bấy lâu nay.
“Chúng ta sẽ sớm lên đường được thôi,” Fflewddur nói, anh vừa đi lo cho Llyan và hai con ngựa xong. “Các lối mòn hẳn đã tan hết băng rồi. Hồ Llunet không thể ở cách đây quá xa được, và với sự giúp đỡ của Quạc, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ đến được đó.”
“Tôi đã suy nghĩ rất cẩn thận về việc này,” Taran đáp lại. “Suốt mùa đông tôi đã cố gắng quyết định xem tôi nên làm gì, và tôi vẫn chưa thể tìm được câu trả lời. Nhưng có một điều rất rõ ràng với tôi, và tôi đã quyết định. Tôi sẽ không đi tìm Tấm Gương nữa.”
“Cậu vừa nói gì thế?” Fflewddur kêu lên. “Tôi có nghe đúng không đấy? Từ bỏ cuộc tìm kiếm của cậu ư? Vào đúng lúc này, chứ không phải bất kỳ lúc nào khác ư? Sau tất cả những gì cậu đã trải qua ư? Taran, anh bạn của tôi, cậu đã lấy lại được sức lực, chứ không phải trí khôn của mình đâu!”
Taran lắc đầu. “Tôi đã từ bỏ nó. Cuộc tìm kiếm của tôi đã chỉ đem đến nỗi đau cho các bạn mà thôi. Còn về phần tôi, nó không hề dẫn tôi đến với quang vinh mà chỉ dẫn đến nỗi hổ nhục. Taran ư? Taran khiến tôi chán ngấy rồi. Tôi mong ước được thuộc về một dòng dõi cao quý, mong ước quá đến nỗi tôi tin điều đó là sự thật. Với tôi điều duy nhất đáng kể là một dòng dõi đáng tự hào. Những người không có địa vị gì... - ngay cả khi tôi kính phục họ, như tôi kính phục Aeddan, như tôi đã hiểu và kính phục Craddoc -... tôi coi họ là những người thấp hèn chính vì lý do ấy. Nếu không được biết họ thì tôi sẽ đánh giá họ thấp hơn bản chất thật của họ. Giờ thì tôi đã hiểu, rằng họ là những con người chân chính. Cao quý ư? Họ cao quý hơn tôi nhiều.”
“Tôi không lấy làm tự hào về bản thân mình,” Taran nói tiếp. “Có thể tôi sẽ không bao giờ còn thấy tự hào về bản thân mình được nữa. Nếu tôi có tìm được điều đáng để tự hào thì tôi sẽ không tìm được nó nhờ vào dòng dõi hay xuất th ân của mình, mà nhờ vào người tôi có thể trở thành. Không phải nhờ vào nguồn gốc của tôi, mà sẽ nhờ vào chính bản thân tôi.”
“Nếu vậy thì sau khi xét đi xét lại mọi việc,” chàng ca sĩ đáp, “điều khôn ngoan nhất ta có thể làm là thu xếp đồ đạc và quay về Caer Dallben thôi.”
Taran lắc đầu. “Tôi không thể giáp mặt với thầy Dallben hay bác Coll được. Có lẽ một ngày nào đó. Nhưng giờ thì không. Tôi phải tự tìm lấy con đường cho riêng mình, tự kiếm sống. Bằng cách nào đó, con chim phải tự đào lấy giun cho mình thôi.” Cậu bỗng im bặt và quay sang nhìn chàng ca sĩ vẻ kinh ngạc. “Orddu - đó là những lời của bà ta. Tôi chỉ biết nghe mà thôi. Mãi cho đến giờ tôi mới thấu hiểu hết ý nghĩa của chúng.”
“Tự đào giun lấy nghe không được ngon lành lắm đâu, mà đó là nói nhẹ nhàng nhất rồi đấy,” Fflewddur trả lời. “Nhưng đúng là như vậy, ai cũng phải thành thạo một nghề nào đó. Hãy thử lấy tôi làm ví dụ xem. Tôi là Vua thật đấy, nhưng còn về ca sĩ hát rong thì cậu không thể tìm được ai tài năng hơn...” Một sợi dây đàn hạc bật đứt, và có vẻ như một số khác cũng sắp sửa đứt đến nơi.
“Ờ, phải, ngoài những cái đó ra,” Fflewddur vội vã nói, “nếu cậu không định quay về nhà thì tôi đề nghị cậu nên đi đến Vùng đất Tự do. Những người thợ thủ công ở đó có thể sẽ đón nhận một cậu học việc sốt sắng đấy.”
Taran nghĩ ngợi một hồi lâu, rồi gật đầu. “Tôi sẽ làm vậy. Giờ thì tôi không xem thường sự đón chào của bất kỳ người nào cả.”
Khuôn mặt của chàng ca sĩ xịu xuống. “Tôi - tôi e rằng tôi không thể đi cùng với cậu được, anh bạn ạ. Vương quốc của tôi đang chờ đợi tôi. Đúng là khi đi lang thang làm ca sĩ hát rong thế này thì tôi sung sướng hơn khi ngồi làm vua. Nhưng tôi đã đi xa quá lâu rồi.”
“Nếu vậy thì chúng ta lại phải chia tay thôi,” Taran trả lời. “Liệu những lời chia tay có bao giờ kết thúc không?”
“Nhưng Gurgi sẽ không từ biệt cậu chủ nhân từ đâu,” Gurgi kêu lên, khi Fflewddur đi thu xếp lại dây cương và yên ngựa của mình. “Không, không, Gurgi khiêm nhường sẽ ở lại, làm lụng bên cậu ấy!”
Taran cúi đầu và quay đi. “Nếu một ngày kia ta xứng đáng được nhận lòng trung thành của mi thì điều đó đã là một phần thưởng đối với ta rồi.”
“Không, không!” Gurgi hét lên phản đối. “Không có phần thưởng gì hết! Gurgi chỉ trao những gì nó thật lòng muốn trao thôi! Nó sẽ ở lại và không đòi hỏi gì nữa. Trước kia cậu chủ đã an ủi Gurgi cô đơn không bạn bè. Giờ hãy để cho nó an ủi cậu chủ đang đau buồn!”
Taran cảm thấy bàn tay con vật đặt lên vai mình. “Thầy Dallben đã nói đúng, anh bạn ạ,” cậu khẽ nói. “Sự trung thành và lý trí sáng suốt ư? Tất cả những điều đó và hơn thế nữa. Nhưng sự an ủi của mi sẽ giúp ích cho ta nhiều hơn mọi điều thông thái trên toàn Prydain này đấy.”
Sáng hôm sau Taran và Fflewddur lại từ biệt nhau lần thứ hai. Mặc cho chàng ca sĩ luôn miệng cãi rằng một người họ Fflam luôn tự tìm được đường đi, Taran vẫn khăng khăng bắt Quạc đi theo làm người dẫn đường. Sau khi xong nhiệm vụ này, Taran bảo chú quạ hãy quay về Caer Dallben hoặc, nếu nó thấy thích hơn thì hãy bay về bất kỳ nơi nào nó muốn. “Tao sẽ không bắt mày phải đi theo tao đâu,” Taran nói với Quạc, “bởi chính tao cũng không biết mọi việc sẽ kết thúc ở đâu nữa.”
“Thế thì chúng ta sẽ làm thế nào đây?” Gurgi kêu lên. “Gurgi trung thành sẽ đi theo, ồ, vâng! Nhưng cậu chủ nhân từ định bắt đầu từ đâu?”
Cả thung lũng bỗng trở nên vô cùng trống trải trong khi Taran đứng đó, không biết trả lời ra sao, ngắm nhìn túp lều im lìm và cái gò đá nhỏ đánh dấu nơi yên nghỉ của Craddoc. “Đã có những lúc,” Taran nói, gần như với chính mình, “ta đã tin rằng ta đang xây hầm ngục cho chính mình bằng hai bàn tay này. Giờ thì ta lại băn khoăn không biết liệu có bao giờ ta còn có thể lao động cần cù đến thế và thu về được nhiều đến thế nữa hay không.”
Cậu quay sang Gurgi đang chờ đợi. “Từ đâu ư?” Cậu quỳ xuống, nhổ lấy một nắm cỏ khô từ bãi đất và ném chúng lên không trung. Làn gió mát lành thổi những lá cỏ về phía Đông, theo hướng của Vùng đất Tự do.
“Từ phía ấy,” Taran nói. “Gió thổi chiều nào thì chúng ta sẽ đi theo chiều ấy.”
Bởi cả Taran lẫn Gurgi đều không muốn bỏ bầy cừu lại, hai người lữ hành liền lên đường rời khỏi thung lũng với một đàn gia súc nhỏ be be chạy theo họ. Taran đã định bụng sẽ tặng chúng cho trang trại nào có bãi cỏ tốt họ gặp đầu tiên, nhưng đã vài ngày trôi qua, cậu vẫn không thấy nơi nào có người ở. Mới đầu hai người bạn đi theo hướng đông nam, nhưng chẳng mấy chốc Taran đã thả cương cho Melynlas tự do và mặc dù biết rằng con tuấn mã đang đi về hướng đông hơn là hướng nam, cậu vẫn không chú ý gì mấy cho đến khi họ tới gần một dòng sông rộng, nước chảy xiết.
Ở đây, thảo nguyên trải dài mênh mông và mọc đầy cỏ xanh mơn mởn. Phía trước mặt cậu thoáng thấy một bãi quây nhốt cừu trống trơ; cậu không nhìn thấy con vật nào cả, nhưng cánh cửa hàng rào lại mở rộng như thể đang chờ đợi đàn gia súc trở về bất cứ lúc nào. Căn nhà tranh mái thấp và các nhà kho có vẻ ngăn nắp sạch sẽ và được giữ gìn cẩn thận. Hai con dê lông lá xồm xoàm đang gặm cỏ ở gần sân trước. Taran chớp chớp mắt kinh ngạc, bởi vì xung quanh căn nhà toàn là những chiếc giỏ đan bằng cành cây đủ loại, cái to, cái nhỏ, cái được buộc trên cột, lại có những cái khác hình như chỉ được ném ra một cách tùy tiện. Trên mấy thân cây mọc bên sông chặn lấy những bục gỗ, và dọc bờ sông thì Taran nhìn thấy một vật gì nom như một cái đăng cá làm bằng các cành cây đan vào nhau rất cẩn thận. Mấy chiếc lưới và dây câu cá đang trôi nổi trên dòng nước được giữ chặt bởi các cọc gỗ.
Bối rối trước trang trại này, đúng là nơi kỳ quặc nhất mà cậu từng thấy, Taran liền lại gần, xuống ngựa, và đúng lú c đó một dáng người cao lớn thong thả bước từ nhà kho ra và đi về phía hai người bạn. Taran thoáng thấy bà vợ của người nông dân ngó ra từ cửa sổ của căn nhà tranh. Cùng lúc ấy, như thể đội đất chui lên, sáu đứa trẻ lớn nhỏ hiện ra và vừa chạy vừa nhảy chân sáo về phía đàn cừu, cười vang sung sướng và hò reo với nhau: “Chúng đến rồi! Chúng đến rồi!” Nhìn thấy Gurgi, lũ trẻ liền chuyển sự chú ý của chúng khỏi bầy cừu và vây lấy nó, thích thú vỗ tay và kêu lên những lời đón chào hớn hở đến nỗi con vật đang kinh ngạc chỉ biết cười phá lên và vỗ tay đáp lại chúng.
Người đàn ông đứng trước mặt Taran gầy gò như một cái sào, với mớ tóc dài lờm xờm rủ xuống trán và cặp mắt xanh sáng rỡ như mắt chim. Thực vậy, đôi vai hẹp và hai cẳng chân khẳng khiu khiến ông trông chẳng khác nào một con cò hoặc con sếu. Chiếc áo ông mặc bị ngắn quá ở ống tay, thân áo thì lại quá dài, và y phục của ông có vẻ được chắp vá bằng những vụn vải đủ mọi kích cỡ, hình dạng và màu sắc.
“Tôi là Llonio Con Trai của Llonwen,” ông nói, với một nụ cười thân thiện và một cái vẫy tay. “Xin đón chào cậu, cho dù cậu là ai đi chăng nữa.”
Taran nhã nhặn cúi đầu chào. “Tên tôi... - tên tôi là Taran.”
“Chỉ thế thôi à?” Llonio hỏi. “Cái tên ấy thì, anh bạn ạ, có vẻ hơi cụt ngủn đấy.” Ông bật cười hồn hậu. “Hay tôi gọi cậu là Taran Không Người Thân Thích nhé? Hay là Taran Không Quê Quán? Cậu đang sống và hít thở khí trời đây, vì thế chắc chắn cậu phải là con trai của một người cha và một người mẹ chứ. Và chắc chắn là cậu phải từ một nơi nào đến đây chứ.”
“Nếu vậy thì xin hãy gọi tôi là người lang thang,” Taran trả lời.
“Taran Người Lang Thang ư? Thế cũng được, nếu cậu muốn vậy.” Llonio liếc nhìn cậu vẻ tò mò, nhưng ông không hỏi gì thêm nữa.
Sau đó khi Taran nói rằng cậu đang đi tìm đồng cỏ cho bầy cừu, Llonio liền gật đầu ngay.
“Sao ạ, chúng sẽ ở lại đây thôi, và xin đa tạ cậu,” ông kêu lên. “Không nơi nào có đồng cỏ xanh tươi hơn và ngọt ngào hơn, không có khu quây nhốt nào an toàn hơn. Chúng tôi đã lo liệu đến việc đó và làm lụng từ đợt tuyết tan đầu tiên để giữ cho nó được như vậy.”
“Nhưng tôi e là chúng sẽ làm chật chỗ đàn cừu của ông,” Taran nói, mặc dù cậu rất thích đồng cỏ của Llonio cùng bãi quây nhốt được rào kín chắc chắn, và hoàn toàn vui lòng để đàn cừu lại cho ông.
“Đàn cừu của tôi ấy à?” Llonio cười đáp. “Tôi chẳng có con cừu nào cả, mãi cho đến lúc này! Mặc dù chúng tôi đã hi vọng và chờ đợi và bọn trẻ con thì hầu như chẳng nói đến chuyện gì khác. Đúng là một ngọn gió may mắn đã đưa cậu đến với chúng tôi. Goewin, bà vợ tôi, đang cần len để may áo cho lũ trẻ của chúng tôi. Giờ thì chúng tôi đã có lông cừu rồi, và còn có thừa nữa.”
“Khoan, khoan đã,” Taran vội nói, cậu không hiểu đầu đuôi ra sao cả, “ông định nói là ông đã dọn quang đồng cỏ và dựng một bãi nhốt cừu mặc dù ông không có con cừu nào cả ư? Tôi không hiểu. Như thế chẳng phải là tốn công vô ích sao_”
“Thật thế ư?” Llonio hỏi, nháy mắt vẻ ranh mãnh. “Nếu tôi không làm những việc ấy, thì thứ nhất, liệu cậu có định giao cho tôi một đàn cừu tốt đến thế không; và thứ hai, liệu tôi có chỗ để nuôi chúng không? Có đúng thế không nào?”
“Nhưng làm sao mà ông biết được,” Taran lên tiếng.
“A, a,” Llonio cười, “sao ư, cậu hãy xem này, tôi biết là chỉ cần một chút may mắn thôi, thì chắc chắn rồi một ngày kia đàn cừu sẽ đến. Tất cả mọi thứ khác đều vậy cả! Giờ thì xin hãy làm chúng tôi được vinh dự bằng cách dừng lại đây một lát. Đồ ăn thức uống của chúng tôi không thể so được với lòng biết ơn của chúng tôi, nhưng chúng tôi sẽ cố hết sức mình để thết đãi các vị.”
Taran chưa kịp trả lời thì Llonio đã cúi xuống bảo một bé gái đang tròn xoe mắt nhìn Gurgi. “Này, Gwelliant, con hãy chạy đi xem con mái nâu hôm nay có đẻ cho chúng ta quả trứng nào không nhé.” Ông quay sang Taran. “Con gà mái nâu ấy tính tình thất thường lắm,” ông nói. “Nhưng khi nó muốn thì nó sẽ đẻ được một quả trứng quá đẹp.” Sau đó ông sai những đứa con còn lại đi làm các việc khác nhau, trong khi Taran và Gurgi kinh ngạc ngắm nhìn cái gia đình lạ lùng này lăng xăng hối hả chạy đi chạy lại. Llonio dẫn hai người vào trong nhà, ở đó Goewin thân mật chào đón họ và mời họ ngồi xuống bên lò sưởi. Chỉ một lát sau Gwelliant đã quay trở lại, một quả trứng nằm gọn trong hai bàn tay chìa ra của cô bé.
“Một quả trứng!” Llonio reo lên, đón lấy nó, giơ nó lên cao và ngắm nghía như thể ông chưa bao giờ được thấy một quả trứng nào vậy. “Đúng là một quả trứng! Quả trứng đẹp nhất mà con mái nâu đã đẻ cho chúng ta! Hãy nhìn kích cỡ của nó mà xem! Hãy nhìn hình dáng của nó mà xem! Nhẵn mịn như thủy tinh, không rạn nứt chút nào cả. Chúng ta sẽ có một bữa tiệc ra trò với nó đây, hai anh bạn ạ.”
Mới đầu Taran chẳng thấy quả trứng mà Llonio hết lời ca ngợi ấy có gì đặc biệt; nhưng rồi, bị lôi cuốn bởi tinh thần phấn chấn của ông, Taran ngạc nhiên thấy mình ngắm nhìn quả trứng như thể chính cậu cũng chưa từng được thấy một quả trứng nào vậy. Trong tay Llonio cái vỏ dường như tỏa sáng lấp lánh rực rỡ, uốn lượn duyên dáng và đẹp đẽ đến nỗi Gurgi cũng phải lấy làm kinh ngạc, và Taran ngắm nhìn vẻ gần như tiếc nuối khi Goewin đập một quả trứng tuyệt diệu nhường ấy vào chiếc bát sành. Tuy vậy, Taran tự nhủ rằng nếu Llonio định chia quả trứng này cho toàn thể gia đình đông đúc của ông thì bữa tiệc của họ quả là sẽ rất đạm bạc.
Thế nhưng, trong khi Goewin khuấy chiếc bát thì đám trẻ con từng đứa một chen nhau chạy vào nhà, mỗi đứa đều ôm theo một vật gì đó khiến cho mỗi khi Llonio phát hiện ra được một thứ, ông lại reo lên vui sướng.
“Rau thơm!” ông kêu lên. “Thật là tuyệt! Hãy băm nhỏ chúng ra. Và đây - cái gì thế này, một nắm bột à? Càng tốt, càng tốt hơn! Chúng ta cũng cần cả bình sữa mà con dê đã cho chúng ta nữa. Một mẩu pho mát ư? Đúng là thứ chúng ta cần!” Rồi ông thích thú vỗ tay khi đứa con út đưa ra một mảnh sáp ong. “May mắn làm sao! Đàn ong đã để lại cho chúng ta chỗ mật dự trữ cho mùa đông của chúng.”
Trong lúc đó thì Goewin bận bịu cho tất cả những thứ tìm được này vào chiếc bát và, trước mắt Taran, nó nhanh chóng đầy lên đến tận miệng. Nhưng ngay cả khi ấy thì nỗi sửng sốt của cậu vẫn chưa kết thúc. Goewin khéo léo đổ bát bột lên một tấm kim loại mà Taran dám chắc chỉ là một tấm khiên của chiến binh đã được gõ phẳng, và giơ nó ra nướng trên đám than hồng. Chỉ trong thoáng chốc, mùi thức ăn ngon lành đã tỏa khắp gian nhà tranh khiến Gurgi chảy nước miếng, và một lát sau, bà vợ người nông dân đã lôi ra từ lò lửa một chiếc bánh vàng rực to gần bằng một cái bánh xe.
Llonio nhanh chóng cắt nó thành từng miếng và Taran kinh ngạc thấy rằng không những nó đủ cho tất cả mọi người mà còn thừa lại một ít nữa. Cậu chén no nê món trứng ngon nhất mà cậu đã từng được nếm thử - nếu như giờ nó vẫn còn có thể được gọi là trứng - và thậm chí cả Gurgi cũng không thể ăn thêm được nữa.
“Giờ thì,” Llonio nói, khi họ đã ăn xong, “tôi phải đi thăm lưới đây. Nếu cậu thích thì xin đi theo tôi.”
Hết chương 16. Mời các bạn đón đọc chương 17!