Trong khi Gurgi ở lại trong căn nhà tranh thì Taran theo Llonio đi ra bờ sông. Dọc đường đi, vui vẻ huýt sáo qua hai hàm răng, Llonio dừng lại để ngó vào mấy chiếc giỏ, và Taran thấy rằng một trong số chúng có đựng một cái tổ ong lớn, chắc hẳn chính nó đã sinh ra thứ mật khiến cho chiếc bánh của Goewin thêm ngọt ngào. Nhưng những cái giỏ khác thì đều trống trơn. Llonio chỉ nhún vai.
“Không sao,” ông nói. “Chắc chắn rồi sẽ có thứ gì đó rơi vào chúng thôi. Lần trước cả một bầy ngỗng trời đã đậu xuống nghỉ. Giá mà cậu được thấy đống lông chúng để lại cho chúng tôi sau khi bay đi. Đủ để nhồi gối cho cả nhà tôi đấy!”
Đến lúc này thì họ đã tới bên bờ sông, mà Llonio gọi là Tiểu Avren bởi vì, khi chảy xuôi dòng xuống phương nam, nó đổ vào chính dòng Đại Avren. “Nó nhỏ thật,” ông nói, “nhưng không sớm thì muộn bất kỳ điều gì ta mong ước cũng theo dòng nước trôi đến thôi.” Như để chứng minh cho lời nói của mình, ông bắt đầu hối hả kéo những tấm lưới buộc vào các cọc gỗ đóng dọc bờ sông. Lưới rỗng không, cũng như các sợi dây câu. Không chút chán nản, Llonio lại nhún vai. “Có lẽ là đến mai, chắc chắn là vậy rồi.”
“Thế là thế nào,” Taran kêu lên, cảm thấy bối rối hơn bao giờ hết, “ông tin rằng những chiếc giỏ và các tấm lưới sẽ đem đến cho ông những gì ông cần ư?” Cậu kinh ngạc nhìn người đàn ông.
“Đúng thế đấy,” Llonio đáp, cất tiếng cười hồn hậu. “Đất đai của tôi nhỏ hẹp; tôi đã làm lụng trên đó hết sức mình. Còn về phần còn lại thì - sao ư, cậu nhìn xem, nếu có một điều tôi biết chắc thì đó là: Cuộc đời này chỉ là vấn đề may rủi mà thôi. Hãy tin tưởng vào nó, và nhất định là ta sẽ thấy được điều ta tìm kiếm, nếu không phải hôm nay thì là ngày mai.”
“Có thể là thế,” Taran thừa nhận, “nhưng nếu phải chờ đợi lâu hơn thế thì sao? Hay lỡ nó không bao giờ tới thì sao?”
“Thì cứ coi là như thế đi,” Llonio cười trả lời. “Nếu tôi băn khoăn về ngày mai thì ngày hôm nay tôi sẽ chẳng có được mấy niềm vui.”
Nói đoạn, ông nhanh nhẹn trèo lên cái đăng cá, mà Taran thấy rằng nó được dựng nên không phải để chặn làn nước lại mà là để gạn lọc và khuấy dòng chảy. Giữ thăng bằng trên cái công trình kỳ quặc ấy, nom càng giống một con sếu hơn bao giờ hết trong khi nhún nhảy cúi lên cúi xuống để chọc tìm giữa các cành liễu gai, chỉ trong chốc lát Llonio đã kêu lên một tiếng mừng rỡ và huơ tay vẻ phấn khích.
Taran vội vã tìm đường qua con đập để đến chỗ ông. Nhưng mặt cậu xịu xuống, khi cậu đến được bên Llonio. Vật đã khiến cho ông reo lên sung sướng đến thế hóa ra chỉ là một bộ cương ngựa bỏ đi, không hơn không kém.
“Trời ơi,” Taran thất vọng nói, “cái này thì chẳng có ích lợi gì mấy. Cái hàm thiếc đã bị rơi mất rồi, và sợi cương thì đã mòn cả.”
“Không sao, không sao hết,” Llonio đáp. “Đây là vật mà dòng Tiểu Avren đã đem đến cho chúng tôi hôm nay, và nó sẽ có ích lợi gì đó, không theo cách này thì cách khác.” Ông vác bộ yên cương đang nhỏ nước ròng ròng lên vai, loay hoay trèo qua con đập, và với Taran theo sau, bước những bước dài qua rặng cây mọc bên bờ sông.
Chỉ một lát sau thì Llonio, vốn có cặp mắt tinh như thể liếc nhìn được khắp mọi nơi cùng một lúc, lại reo lên và cúi xuống một gốc cây du xù xì. Giữa đám rễ cây và xung quanh đó mọc đầy nấm.
“Hãy hái lấy chúng đi, anh chàng Lang Thang!” Llonio nói. “Bữa tối của chúng ta đấy. Những cây nấm ngon nhất mà tôi từng thấy! Mềm và ngọt lắm! Hôm nay chúng ta gặp may rồi!” Vội vã gom những gì tìm được bỏ vào một chiếc túi đeo lủng lẳng bên thắt lưng, Llonio lại lên đường.
Đi theo đôi chân lang thang của Llonio, chốc chốc lại dừng lại để hái những cây rau thơm hoặc rễ cây gì đó, ngày hôm ấy trôi qua nhanh chóng nếu nỗi nó đã gần kết thúc trước khi Taran kịp nhận ra là nó bắt đầu. Chiếc túi của Llonio đã đầy, cả hai liền quay lại căn nhà tranh, đi theo một lối mòn khác chứ không phải con đường họ đã đi lúc đầu. Trong khi họ đang rảo bước, Taran bị vấp phải một hòn đá chìa ra bên đường và cậu ngã lộn nhào.
“Ông gặp may hơn tôi rồi,” Taran bật cười. “Ông đã tìm được nấm, còn tôi thì lại chỉ nhận được một đôi cẳng chân thâm tím mà thôi!”
“Không phải vậy đâu, không phải vậy đâu!” Llonio phản đối và vội vã gạt lớp đất mùn che lấp một phần viê n đá đi. “Giờ thì cậu hãy nhìn mà xem! Cậu đã thấy viên đá nào có hình thù như thế chưa? Tròn như bánh xe và nhẵn nhụi như vỏ trứng. Đúng là của trời cho, chỉ việc nhặt lên thôi!”
Nếu nó đúng là của trời cho, Taran tự nhủ, thì nó hẳn là của trời cho nặng nhất và rắn nhất mà cậu đã vấp phải, bởi vì bây giờ Llonio khăng khăng đòi bẩy viên đá phẳng lên. Sau một hồi đào bới và lôi kéo, họ cũng nhấc được nó lên và cùng loay hoay vác nó đem về trang trại, ở đó Llonio vần nó vào nhà kho vốn đã đầy chật những món linh tinh nào là cần khuấy bơ, dải vải, đồ trang trí cương ngựa, roi da, nùi len, và tất cả những gì mà cái đăng cá, những tấm lưới và những cái giỏ của ông đã thu thập được.
Trên ngọn lửa bếp, món nấm, cùng với phần bánh nướng còn lại và một ít rau đầu mùa mà bọn trẻ con tìm được, tỏa mùi ngon lành đến nỗi Taran và Gurgi không cần phải đợi nài nỉ ở lại ăn bữa tối. Khi đêm xuống Taran vui lòng nhận lời mời của gia đình Llonio và nằm nghỉ bên bếp lửa. Gurgi, bụng no nê mãn nguyện, liền ngáy khò khò ngay lập tức. Còn Taran, lần đầu tiên trong nhiều ngày, cũng ngủ say mà không mộng mị gì.
Sáng hôm sau trời trong lành và khô ráo. Khi Taran thức dậy thì mặt trời đã lên cao, và mặc dù đã định bụng sẽ đóng yên cho Melynlas rồi lên đường ngay, cậu lại không làm vậy. Nếu hôm qua cái đăng cá của Llonio không đem đến cho họ được mấy thì dòng chảy đêm đó đã bù lại gấp nhiều lần. Một bao lúa mì lớn không hiểu sao lại bị vướng vào một mớ cành khô, chúng biến thành cái bè và thế là bao lúa bập bềnh xuôi dòng trôi xuống mà không hề bị ướt. Goewin, không chần chừ gì thêm, liền đem ra ngay một cái cối xay đá để nghiền lúa mì thành bột. Tất cả đều giúp một tay vào việc này, đám trẻ con từ đứa lớn nhất đến đứa bé nhất, thậm chí cả Llonio nữa; Taran cũng vui vẻ làm phần việc của mình, mặc dù cậu thấy cái cối xay quá nặng nề và vướng víu, Gurgi cũng vậy.
“Ôi, việc xay xát mới mệt mỏi làm sao,” Gurgi kêu rên. “Những ngón tay khốn khổ của Gurgi đau nhức hết cả, và hai cánh tay nó thì mỏi nhừ!”
Tuy thế, nó vẫn làm xong phần việc của mình; mặc dù đến lúc bột xay đủ ăn thì một ngày nữa đã trôi qua, và Llonio lại nài nỉ hai người lữ hành ở lại chia sẻ lòng mến khách của ông. Taran không chối từ. Thật vậy, trong khi duỗi dài bên lò sưởi, cậu tự thú nhận với bản thân mình là cậu đã thầm mong Llonio sẽ đề nghị họ ở lại.
Trong mấy ngày sau đó, lòng Taran thấy thư thái hơn bao giờ hết kể từ khi cậu quyết định từ bỏ cuộc tìm kiếm của mình. Bọn trẻ con, mới đầu còn nhút nhát không dám lại gần cậu cũng như cậu ngượng ngùng không dám làm thân với chúng, giờ đã trở thành những người bạn thân thiết và nô giỡn với cậu cũng vui vẻ như nô giỡn với Gurgi vậy. Cùng với Llonio, ngày nào cậu cũng đi thăm các tấm lưới, những chiếc giỏ và cái đăng cá, đôi khi quay về tay không và đôi khi lại mang nặng những thứ lặt vặt kỳ lạ mà ngọn gió hoặc dòng nước đã đem đến. Lúc đầu thì cậu không thấy những vật vặt vãnh này có l i ích gì, nhưng Llonio gần như luôn tìm ra được cách gì đó để sử dụng chúng. Một cái bánh xe thì được biến thành cái xa quay sợi, một phần của bộ yên ngựa được đem ra làm thắt lưng cho bọn trẻ, một cái túi yên biến thành một đôi ủng; và Taran nhận ra rằng hầu như bất cứ thứ gì gia đình họ cần, không sớm thì muộn, cũng từ đâu đó hiện ra; và không có vật gì - một quả trứng, một cây nấm, một nắm lông vũ mềm như cây dương xỉ non - mà không được coi là một kho báu.
“Nếu nghĩ theo cách nào đó,” Taran bảo Gurgi, “thì Llonio còn giàu có hơn cả Lãnh chúa Gast, và ông ta cũng sẽ không bao giờ có thể giàu có bằng Llonio được. Không chỉ có thế, ông ấy còn là người may mắn nhất trên toàn xứ Prydain này nữa! Ta không ghen tỵ với sự giàu có của bất kỳ ai,” Taran thêm vào. Rồi cậu thở dài và lắc đầu. “Nhưng ta ước gì ta có được sự may mắn của Llonio.”
Khi cậu nói lại như vậy với Llonio, ông chỉ cười và nháy mắt với cậu. “May mắn ấy ư, anh chàng Lang Thang? Một ngày kia, nếu cậu gặp may, thì tôi sẽ cho cậu biết bí quyết của mình.” Ngoài điều đó ra thì Llonio không nói gì thêm nữa.
Đến lúc này thì một ý tưởng đã bắt đầu thành hình trong đầu Taran. Gần như tất cả những gì Llonio tìm thấy đều đã được đem ra dùng vào việc này hoặc việc khác - chỉ trừ hòn đá phẳng nhẵn, nó vẫn nằm nguyên trong nhà kho. “Nhưng tôi tự hỏi,” cậu nói với Llonio, “tôi tự hỏi không biết đem nó ra để nghiền bột thì có tốt hơn là chiếc cối xay cũ kia không...”
“Thế ư?” Llonio vui mừng kêu lên. “Nếu cậu nghĩ là nó có thể thì xin hãy tự nhiên làm theo ý cậu đi.”
Vẫn còn cân nhắc ý tưởng này, Taran liền đi quanh rừng cho đến khi cậu tìm thấy một hòn đá khác to gần bằng hòn đá nọ. “Tôi đã gặp may đấy,” cậu cười nói, trong khi Llonio giúp cậu lôi nó về.
Llonio cười. “Đúng thế, đúng thế.”
Suốt mấy ngày tiếp theo, Taran, với sự giúp đỡ hết sức sốt sắng của Gurgi, làm việc không ngừng nghỉ. Ở một góc lều, cậu đặt một hòn đá xuống đất thật chắc chắn và đặt hòn đá kia lên trên nó. Trên hòn đá này, cậu cần mẫn đục cái một lô, và dùng những mẩu dây cương còn thừa lại, cậu đóng vào cái lỗ một cây cọc dài xuyên qua một khe hở trên mái nhà kho. Trên đỉnh cọc, cậu gắn thêm vào các khung gỗ, và căng một vuông vải rộng trên bộ khung này.
“Nhưng đây đâu phải là một cái cối xay,” Gurgi kêu lên khi cuối cùng nó cũng được hoàn thành. “Nó là một con thuyền để trôi nổi bập bềnh trên mặt nước đấy chứ! Nhưng không có con thuyền nào cả, mà chỉ có một cột buồm với cánh buồm thôi.”
“Để rồi xem,” Taran đáp lại, và gọi Llonio tới để đánh giá công trình của cậu.
Cả gia đình đứng ngơ ngác ngắm nhìn cái công trình kỳ quặc của Taran một hồi lâu. Thế rồi, khi gió nổi mạnh lên, cánh buồm thô sơ liền đón lấy luồng gió đang thổi tới. Chiếc cọc nom như cái cột buồm rung lên kèn kẹt, và trong một thoáng thót tim Taran đã sợ là mọi công sức của cậu sẽ đổ tiêu tan mất. Nhưng nó vẫn đứng vững, cánh buồm căng phồng lên và bắt đầu quay, mới đầu còn chậm, sau nhanh dần và nhanh dần lên, trong khi đó, ở bên dưới, trong nhà kho, hòn đá nằm trên liền vui vẻ xoay tít. Goewin vội vã đổ lúa vào chiếc cối xay tự tạo của Taran. Chỉ một thoáng sau nó đã cho ra thứ bột mịn hơn bột xay bằng cái cối xay cũ nhiều. Bọn trẻ con vỗ tay và reo lên sung sướng; Gurgi la lên kinh ngạc; và Llonio thì cười cho đến khi nước mắt chảy tràn xuống má.
“Anh chàng Lang Thang ạ,” ông kêu lên, “cậu đã dùng ít mà làm được nhiều, và làm khá hơn cả tôi cơ đấy!”
Trong những ngày sau đó cái cối xay không chỉ xay lúa cho cả nhà, mà Taran còn nghĩ ra cách dùng nó làm một hòn đá mài để mài bén các dụng cụ của Llonio nữa. Ngắm nhìn công trình của mình, Taran thoáng cảm thấy một niềm tự hào mà lần đầu tiên cậu có được kể từ khi rời khỏi thung lũng của Craddoc. Nhưng đến cùng với niềm tự hào là một thoáng bồn chồn không yên.
“Nói cho đúng ra,” cậu bảo Gurgi, “thì ta phải rất lấy làm sung sướng được ở lại đây cả đời mới phải. Ta đã tìm thấy sự thanh bình và tình bằng hữu - và cả một niềm hi vọng nữa. Nó làm dịu lòng ta tựa như lá cao dán lên vết thương vậy.” Cậu ngần ngừ. “Thế nhưng không hiểu sao, cách sống của Llonio không phải là dành cho ta. Một cái gì đó thúc đẩy ta đi kiếm tìm hơn những gì dòng Tiểu Avren đem lại. Kiếm tìm điều gì thì ta không biết. Nhưng than ôi, ta biết là nó không có ở đây.”
Rồi sau đó cậu nói chuyện với Llonio và luyến tiếc cho ông biết rằng cậu lại phải lên đường. Lần này, thấy rằng Taran đã quyết tâm, Llonio không nài cậu ở lại nữa, và họ từ biệt nhau.
“Nhưng mà,” Taran nói trong khi cậu trèo lên lưng Melynlas, “than ôi, ông vẫn chưa cho tôi biết bí quyết về vận may của ông.”
“Bí quyết ấy à?” Llonio trả lời. “Cậu chưa đoán được ra sao? Tôi cũng chẳng may mắn hơn cậu hay bất kỳ ai khác đâu. Cậu chỉ cần tinh mắt để nhận ra vận may của mình khi nó đến, và hãy sáng suốt để sử dụng bất kỳ cái gì mình có được.”
Taran buông cương cho Melynlas được tự do, và cùng với Gurgi đi bên mình, cậu chậm rãi rời khỏi bờ sông Tiểu Avren. Khi quay lại để vẫy chào một lần cuối, cậu nghe thấy Llonio gọi với theo, “Hãy tin vào vận may của mình, Taran Người Lang Thang ạ. Nhưng đừng quên thả lưới ra đấy nhé!”
Hết chương 17. Mời các bạn đón đọc chương 18!