Biên Niên Sử Xứ Prydain Chương 19

Chương 19
Chiếc bàn quay của người thợ gốm

Ta đã cho cậu biết cậu đang ở đâu rồi đấy,” ông già hồn hậu nói tiếp, trong khi Taran xuống ngựa bên bờ suối. “Giờ thì cậu có thể cho ta biết cậu là ai, và điều gì đã đưa cậu đến một nơi mà cậu phải hỏi tên? Cậu đã bị lạc đường và tìm đến Merin trong khi cậu đang cần tìm một Làng khác sao?”

“Tên cháu là Người Lang Thang,” Taran trả lời. “Còn về chuyện lạc đường thì,” cậu cười nói thêm, “không thể nói là cháu đã bị lạc được, bởi vì chính cháu cũng không biết là mình đang đi về đâu nữa.”

“Nếu vậy thì Merin cũng là một nơi dừng chân tươi đẹp không kém bất kỳ nơi nào khác đâu,” ông già nói. “Hãy đi theo ta, nếu cậu chịu đón nhận lòng mến khách mà ta xin dành cho hai vị.”

Trong khi ông già đổ xẻng đất sét cuối cùng vào hai cái thùng gỗ, Taran bước tới trước và xin ông để cậu giúp xách chúng; và bởi vì ông già không từ chối, cậu liền ghé vai vào chiếc đòn gánh. Nhưng đôi thùng nặng hơn Taran tưởng. Mồ hôi nhanh chóng tuôn ra ướt đẫm trán cậu; cậu gần như không lảo đảo đi nổi dưới cái gánh nặng mà cậu thấy như với mỗi bước chân nó lại nặng lên gấp đôi; và túp lều mà ông già chỉ tới dường như mỗi lúc một xa hơn thay vì gần lại.

“Nếu ông đi kiếm vữa để sửa lại ống khói,” Taran hổn hển, “thì quả là ông đã đi tìm ở chỗ hơi xa xôi đấy!”

“Cậu đã không nắm được bí quyết để giữ cái đòn gánh ấy rồi,” ông già nói, cười ngoác miệng khi nhìn thấy cố gắng của Taran. Ông nhấc cặp thùng mà Taran rất vui lòng được trao lại cho ông lên vai và bước đi hết sức nhanh nhẹn, bất kể gánh nặng ông phải mang, nhanh đến nỗi ông gần như vượt xa hai người bạn.

Bên trong lều Taran nhìn thấy các giá và kệ chất đầy đồ gốm sứ đủ loại, nào là những chiếc vại đất nung đơn giản, những chiếc lọ sứ duyên dáng, và nằm rải rác giữa những vật này, là những món đồ tinh xảo và đẹp đẽ đến nỗi khiến cậu quên cả thở. Cậu mới chỉ nhìn thấy những công trình đẹp đến thế một lần duy nhất, trong kho báu của Lãnh chúa Gast. Cậu kinh ngạc quay sang ông già, ông đã bắt đầu bày đĩa và bát lên chiếc bàn bằng gỗ sồi.

“Khi nói rằng ông đi kiếm vữa để sửa lại ống khói, cháu đã thốt ra một điều thật ngốc nghếch,” Taran nói, khiêm nhường cúi đầu. “Nếu đây là các sản phẩm ông làm ra, thì cháu đã từng nhìn thấy một vài món đồ như thế rồi, và cháu biết ông là ai: ông chính là Annlaw Thợ Gốm.”

Ông thợ gốm gật đầu. “Đó đúng là đồ do ta làm. Nếu cháu đã nhìn thấy chúng thì có lẽ là cháu có biết đến ta thật. Bởi vì ta đã làm nghề này lâu lắm rồi, chàng trai Lang Thang ạ, và không còn biết ở chỗ nào thì không còn là đất sét mà là chính Annlaw nữa - hay thật ra đất sét và Annlaw chỉ là một mà thôi.”

Taran ngắm kỹ hơn những món đồ gốm chất đầy trong gian lều, ngắm những bát rượu mới nặn xong, hình dáng còn khéo léo hơn cả chiếc bát trong kho báu của Lãnh chúa Gast, ngắm những cái bàn dài bắn đầy đất sét ướt và chất nặng những bình phẩm màu, thuốc nhuộm và nước men. Giờ cậu ngạc nhiên nhận thấy rằng những thứ mà mới đầu cậu tưởng chỉ là đồ sành sứ bình thường, hóa ra lại đẹp đẽ không kém gì chiếc bát đựng rượu, theo cách riêng của chúng. Tất cả đều do một bàn tay lão luyện làm nên. Cậu quay sang Annlaw.

“Cháu đã được nghe kể rằng,” Taran nói, “một món đồ do ông làm ra còn đáng giá hơn cả toàn bộ kho báu của một lãnh chúa, và cháu hoàn toàn tin là như vậy. Và nơi này,” cậu lắc đầu kinh ngạc, “nơi này chính là một kho báu vô giá.”

“Đúng, đúng thế!” Gurgi reo lên. “Ôi, ông thợ gốm lành nghề hẳn đã giành được rất nhiều tiền bạc và của cải nhờ những món đồ khéo léo này!”

“Tiền bạc và của cải ư?” Annlaw mỉm cười đáp lại. “Ta chỉ kiếm đủ ăn mà thôi. Ta đem phần lớn những thứ nồi niêu bát đĩa này đến cho các Làng nhỏ hơn xung quanh đây, ở đó họ không có thợ gốm riêng. Vì ta đem đến cho họ cái họ cần, họ lại trả công ta bằng những thứ ta cần; và thứ ta nhất thiết không cần đến chính là của cải quý giá. Niềm vui của ta nằm ở công việc của mình, chứ không phải ở những gì ta kiếm được. Liệu mọi kho báu trên toàn Prydain này có giúp cho ngón tay ta nặn ra được một cái bát đẹp hơn không?”

“Có người bảo rằng,” Taran nói, không phải là không có phần nghiêm chỉnh trong khi cậu liếc nhìn chiếc bàn quay của người thợ gốm, “ông làm được nh ững thứ đẹp như vậy là nhờ có phép thuật.”

Nghe vậy Annlaw ngửa đầu về phía sau và cười vang. “Ta ước là ta có biết phép thuật, bởi vì như thế ta sẽ đỡ phải làm lụng vất vả. Không, không, chàng trai Lang Thang ạ, cái bàn quay của ta, than ôi, cũng giống như mọi cái bàn quay khác thôi. Quả thật,” ông nói thêm, “Givannion Chân Què, người thợ thủ công bậc thầy của Prydain, cách đây lâu lắm rồi, đã sáng chế ra đủ loại công cụ thần kỳ. Ông đã giao chúng cho những người mà ông nghĩ là sẽ dùng chúng một cách khôn ngoan và hữu ích, nhưng lần lượt từng thứ một bị rơi vào bàn tay của Arawn Chúa tể Tử địa. Giờ thì tất cả đã biết mất.

“Nhưng Giovannion cũng đã khám phá ra những bí quyết sâu kín nhất của mọi nghề nghiệp và ghi chép chúng lại,” Annlaw nói tiếp. “Arawn cũng đã lấy cắp cả những bí quyết này nữa, giấu kín chúng ở Annuvin để không ai còn có thể dùng đến chúng.” Gương mặt của người thợ gốm trở nên nghiêm nghị. “Ta đã bỏ cả đời để tìm kiếm lại các bí quyết ấy, để đoán xem bản chất của chúng là gì. Ta đã học được rất nhiều điều - học bằng cách làm việc, tựa như một đứa bé học đi vậy. Nhưng ta đã bị chậm bước. Những tri thức sâu kín nhất vẫn nằm ngoài tầm tay của ta. Ta e rằng nó sẽ mãi mãi là như vậy.

“Nếu ta biết được những tri thức ấy,” Annlaw nói, “thì ta không cần bất kỳ thứ công cụ thần kỳ nào hết. Nếu ta tìm được học vấn cần thiết, thì đây,” ông nói thêm, giơ hai bàn tay đầy đất sét lên, “chừng này cũng đủ để phục vụ ta rồi.”

“Nhưng ông biết rõ mình muốn kiếm tìm điều gì,” Taran đáp lại. “Còn cháu, than ôi, đi tìm mà còn chẳng biết phải đi về đâu nữa.” Rồi sau đó cậu kể cho Annlaw về ông Thợ Rèn Hevydd và bà Thợ Dệt Dwyvach, về thanh gươm và tấm áo choàng mà cậu đã tự làm. “Cháu rất tự hào về những gì cháu đã làm được,” Taran nói tiếp. “Thế nhưng, rốt cuộc thì chiếc đe hay khung cửi đều không làm cháu hài lòng.”

“Thế còn chiếc bàn quay của người thợ gốm thì sao?” Annlaw hỏi. Khi Taran thú thật là cậu không biết chút gì về nghề gốm và xin Annlaw hãy làm thử cho cậu xem cách nặn gốm ra sao, ông thợ gốm già liền vui vẻ bằng lòng. 

Annlaw kéo cái áo khoác vải thô của mình lên và ngồi xuống bên chiếc bàn quay, nhanh chóng xoay tròn mặt bàn và ném lên đó một tảng đất sét. Ông thợ gốm cúi xuống vẻ gần như khiêm nhường, và giơ tay ra nhẹ nhàng như thể ông đang nâng đỡ một chú chim non vậy. Trước mắt Taran, Annlaw bắt đầu nặn một chiếc bình cao, thanh mảnh. Trong khi Taran thán phục ngắm nhìn ông, tảng đất sét nom như đang tỏa sáng trên chiếc bàn đang quay tít và liên tục thay hình đổi dáng. Giờ thì Taran đã hiểu rõ lời nói của Annlaw, bởi vì quả thực giữa những ngón tay khéo léo của người thợ gốm và tảng đất sét cậu không thấy có sự khác biệt nào hết, như thể chính bàn tay của Annlaw đang hòa vào tảng đất và truyền sự sống cho nó. Annlaw im lặng và hết sức chăm chú; gương mặt nhăn nheo của ông sáng rực lên; mọi tháng năm tuổi tác đã biến mất cả. Taran cảm thấy tim mình tràn ngập một niềm vui dường như tỏa ra từ chính người thợ gốm, và lúc đó thì cậu hiểu rằng mình đang đứng trước một người thợ bậc thầy chân chính, lành nghề hơn bất kỳ người thợ nào mà cậu từng biết.

“Fflewddur nói sai rồi,” Taran lẩm bẩm. “Nếu quả là có phép màu thật thì nó không nằm ở chiếc bàn quay mà là ở chính người thợ gốm.”

“Không có phép màu nào cả,” Annlaw trả lời, vẫn không rời khỏi công việc của mình. “Có lẽ nó là một năng khiếu thì đúng hơn, nhưng năng khiếu ấy chỉ có được sau rất nhiều năm lao động vất vả.”

“Nếu cháu có thể làm ra được một vật đẹp đẽ nhường ấy thì cháu xin sẵn sàng làm công việc vất vả đó,” Taran nói.

“Nếu vậy thì hãy ngồi xuống đi,” Annlaw nói, dịch sang một bên nhường chỗ cho Taran ngồi xuống bên chiếc bàn quay. “Cháu hãy tự mình nặn tảng đất xem nào.” Khi Taran phản đối là cậu sẽ làm hỏng chiếc bình mà Annlaw đang nặn dở, thì ông thợ gốm chỉ bật cười. “Đúng là cháu sẽ làm hỏng nó rồi. Nhưng ta sẽ ném nó trở lại vào máng trộn để nhào nó với những tảng đất sét khác, và sớm muộn gì thì nó cũng sẽ lại trở nên có ích thôi. Nó sẽ không bị bỏ phí đâu. Thật ra, không thứ gì bị bỏ phí cả, mà sẽ luôn có ích theo một hình dạng này hoặc hình dạng khác.”

“Nhưng còn ông thì sao?” Taran nói. “Sự khéo léo mà ông đã bỏ ra để nặn nó sẽ bị phí phạm.”

Người thợ gốm lắc đầu. “Không phải vậy đâu. Sự khéo léo của người thợ thủ công đâu phải như nước đựng trong cái bình đất để được múc ra từng gáo một cho đến khi cạn khô. Không, bao nhiêu khéo léo bỏ ra thì vẫn còn lại ngần ấy thôi. Trái tim tự mình đổi mới, chàng trai Lang Thang ạ, và nhờ thế người thợ thủ công sẽ càng lành nghề hơn. Đây, hãy thử xem. Tay - đặt như thế này. Ngón tay cái - đặt như thế này.”

Khoảnh khắc đầu tiên mà Taran cảm thấy tảng đất sét xoay tít giữa những ngón tay mình, trái tim cậu nảy lên vì cảm thấy cùng một niềm vui sướng mà cậu đã thấy trên mặt người thợ gốm. Niềm tự hào vì tự rèn được gươm và tự dệt được áo đã nhường chỗ cho phát hiện mới mẻ này, nó khiến cậu reo lên với nỗi hân hoan bất ngờ. Nhưng bàn tay cậu lúng túng và tảng đất sét méo đi. Annlaw liền dừng chiếc bàn quay lại. Cái bình đầu tay của Taran vẹo vọ không ra hình thù gì đến nỗi, mặc dù thất vọng, cậu vẫn ngửa đầu về phía sau và cười phá lên.

Annlaw vỗ vai cậu. “Khá lắm, chàng trai Lang Thang ạ. Cái bát đầu tiên mà ta nặn cũng xấu xí không kém gì thế này - còn tệ hơn nữa kia. Cháu đã nắm được cốt lõi của nó rồi đấy. Nhưng trước khi học nghề thì cháu phải hiểu được tảng đất sét đã. Hãy đào, chọn lọc và nhào trộn nó, để hiểu được tính chất của nó còn rõ hơn cả hiểu tính tình người bạn thân nhất của cháu. Rồi sau đó hãy nghiền phẩm màu để làm men, để hiểu được ngọn lửa lò nung tác động lên chúng ra sao.”

“Ông Annlaw Thợ Gốm,” Taran nói, hạ thấp giọng nhưng vẫn không che giấu nổi sự khao khát của cậu, “ông có thể dạy nghề cho cháu được không ạ? Cháu mong được học nghề này hơn bất kỳ cái gì khác.”

Annlaw ngần ngừ một hồi lâu và ngắm Taran thật kỹ càng. “Ta chỉ có thể dạy cho cháu những gì cháu học được mà thôi,” ông thợ gốm nói. “Cháu có thể học được bao nhiêu thì thời gian sẽ cho biết. Hãy ở lại đây, nếu cháu thực lòng muốn vậy. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu.”

Đêm đó hai người bạn đồng hành ngủ lại thoải mái trong một góc ấm cúng của xưởng gốm. Gurgi cuộn tròn trên cái ổ rơm, nhưng Taran co đầu gối ngồi lên và vòng hai tay ôm lấy chân. “Lạ thật,” cậu khẽ nói. “Ta càng biết rõ những người dân Tự Do bao nhiêu thì ta càng yêu quý họ bấy nhiêu. Thế nhưng Làng Merin đã lôi cuốn ta ngay từ cái nhìn đầu tiên, hơn tất cả những ngôi làng khác.” Đêm hôm ấy êm đềm và yên tĩnh. Taran mỉm cười nuối tiếc trong bóng tối. “Ngay từ phút đầu tiên nhìn thấy nó, ta đã nghĩ rằng nó là một nơi mà ta sẽ vui lòng ở lại. Và rằng... rằng thậm chí cả Eilonwy cũng có thể cảm thấy hạnh phúc ở đây.

“Và ở bên chiếc bàn quay của Annlaw,” cậu nói tiếp, “khi bàn tay ta chạm vào khối đất sét, ta biết rằng ta sẽ vui sướng được trở thành một người thợ gốm. Vui sướng hơn là làm thợ rèn, hơn là làm thợ dệt - tựa như ta có thể nói được bằng tay vậy, tựa như ta có thể tạo ra bất kỳ hình dáng gì trong lòng ta muốn. Ta hiểu Annlaw nói gì. Không có sự khác biệt nào giữa ông ấy và công việc của ông. Đúng thế, Annlaw đã thổi hồn vào khối đất sét và trao cho nó sự sống của chính mình. Nếu ta cũng có thể học được cách làm như vậy...”

Gurgi không đáp lại. Con vật mệt mỏi đã ngủ say. Taran mỉm cười và kéo áo choàng đắp lên vai Gurgi cho kín hơn. “Hãy ngủ ngon đi,” cậu nói. “Có lẽ chúng ta đã đi đến đoạn kết của cuộc hành trình rồi.”

 

Annlaw đã giữ đúng lời. Trong những ngày sau đó, người thợ gốm dạy cho Taran những kỹ năng cũng quan trọng không kém gì cách nặn đất sét: làm sao để tìm được loại đất thích hợp, đánh giá chất lượng và độ nhẵn mịn của chúng, chọn lọc, nhào trộn. Gurgi cùng làm tất cả mọi việc với Taran, và chẳng mấy chốc bộ lông rối bù của nó đã bám đầy bụi, đất bùn và sạn men đến nỗi nom nó y như một cái bình đất chưa được nung gắn trên hai cẳng chân khẳng khiu.

Mùa hè ấy trôi qua nhanh chóng và vui vẻ, và càng ngắm người thợ gốm làm việc bao nhiêu Taran càng sửng sốt bấy nhiêu. Ở chiếc máng nhào trộn, Annlaw giã đất mạnh mẽ hơn cả ông Thợ Rèn Hevydd gõ búa lên đe; và ở chiếc bàn quay, ông làm ra những món đồ tinh xảo với sự khéo léo vượt cả bà Thợ Dệt Dwyvach. Mặc cho cậu thức dậy sớm bao nhiêu, Taran vẫn luôn thấy ông thợ gốm đã dậy trước và lại bắt tay vào làm việc rồi. Annlaw không biết mệt mỏi là gì, thường miệt mài làm việc bên chiếc bàn quay của mình đến nỗi ông trải qua hàng đêm không ngủ và cả ngày không ăn uống gì. Ông thợ gốm rất ít khi chịu lặp lại một mẫu hoa văn nào, và luôn cố gắng tạo ra những thứ đẹp hơn cả những gì ông đã làm ra từ trước.

“Nước cũ không phải là thức uống tốt,” Annlaw nói. “Công việc cũ mòn thì còn tệ hơn. Và kẻ nào đi lại bước chân cũ của mình thì chỉ kết thúc ở chính nơi hắn đã bắt đầu mà thôi.”

Chỉ đến khi sang thu thì Annlaw mới để cho Taran thử tay nghề ở chiếc bàn quay một lần nữa. Lần này thì chiếc bát mà Taran nặn được không còn méo mó vẹo vọ như cái trước nữa.

Annlaw ngắm nghía nó thật kỹ, gật đầu, rồi bảo cậu, “Cháu đã học hỏi được đôi chút đấy, chàng trai Lang Thang ạ.” Thế nhưng, trước vẻ kinh hoàng của Taran, Annlaw ném cái bát vào máng trộn. “Đừng sợ,” ông thợ gốm nói. “Khi cháu nặn được một cái bát đáng giữ lại thì nó sẽ được đem vào lò nung.”

Mặc dù Taran e rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra, chẳng bao lâu sau Annlaw đã đánh giá là một món đồ cậu nặn ra, một chiếc bát nông hình dáng giản dị nhưng cân xứng, đã sẵn sàng để đem nung. Ông đặt nó, cùng với những nồi niêu bát đĩa khác mà ông đã nặn cho dân Làng Isav vào một cái lò nung cao hơn và sâu hơn cả bễ rèn của Hevydd. Trong khi Annlaw bình thản quay đi làm nốt những món đồ gốm cho dân Làng thì Taran mỗi lúc một nóng ruột hơn cho đến khi cậu cảm thấy như chính mình đang bị nung trong lò vậy. Nhưng cuối cùng, khi các món đồ đã được nung xong và đã nguội đi, người thợ gốm liền lôi cái bát ra, xoay xoay nó trong tay trong khi Taran nín thở chờ đợi, rồi đưa một ngón tay dính đầy đất sét lên gõ vào nó.

Ông cười với Taran. “Tiếng gõ nghe thật lắm. Chỉ là sản phẩm đầu tay thôi, chàng trai Lang Thang ạ, nhưng cháu không phải hổ thẹn vì nó đâu.”

Taran thấy phấn khởi hơn hẳn, như thể cậu đã tạo ra được một chiếc bát đựng rượu đẹp hơn bất kỳ cái bát nào mà Lãnh chúa Gast từng thấy.

Nhưng niềm vui của cậu nhanh chóng chuyển thành nỗi tuyệt vọng. Suốt cả mùa thu ấy Taran nặn thêm rất nhiều món đồ gốm khác; thế nhưng càng ngày cậu càng chán nản hơn vì không có vật nào làm cậu vừa ý, không có vật nào được như cậu hi vọng, bất kể bao nhiêu công sức mà cậu đã đổ ra.

“Còn thiếu cái gì cơ chứ?” Cậu kêu lên với Annlaw. “Cháu đã có thể rèn được một thanh gươm tốt và dệt ra được một chiếc áo choàng đẹp. Nhưng giờ thì cái mà cháu mong muốn nắm bắt được lại nằm ngoài tầm với của cháu. Tại sao cái kỹ năng mà cháu muốn có hơn hết thảy thì cháu lại không thể giành được cơ chứ?” Cậu bật kêu lên một cách đau khổ. “Chẳng lẽ cháu không có chút năng khiếu nào ư?” Cậu gục đầu xuống, và tim cậu buốt lạnh ngay khi cậu vừa dứt lời, bởi vì trong thâm tâm, cậu biết rằng mình đã đoán được sự thật.

Annlaw không phản đối, mà chỉ nhìn cậu một hồi lâu với vẻ buồn rầu sâu sắc.

“Tại sao?” Taran thì thầm. “Tại sao lại như vậy?”

“Đó là một câu hỏi khó trả lời,” rốt cuộc thì Annlaw cũng đáp lại. Ông đặt tay lên vai Taran. “Thật vậy, không ai có thể trả lời nó. Có những người đã bỏ cả đời làm việc để giành được kỹ năng ấy, gắng hết sức mình chỉ để rồi cuối cùng thấy rằng mình đã nhầm lẫn; lại có những người sinh ra đã có năng khiếu nhưng không bao giờ hay biết; có những người chán nản quá sớm; và có những người không bao giờ bắt đầu.

“Cháu hãy tự coi mình là người may mắn,” người thợ gốm nói tiếp, “bởi vì cháu đã hiểu được điều đó ngay lúc này và không phải bỏ cả đời theo đuổi một hi vọng hão huyền. Cháu đã học được điều này, và không có sự học hỏi nào là phí hoài cả.”

“Vậy thì cháu phải làm gì bây giờ?” Taran hỏi. Nỗi đau khổ cay đắng như cậu đã cảm thấy khi còn ở thung lũng của Craddoc giờ lại tràn ngập trong lòng cậu.

“Còn có nhiều cách khác để đạt được hạnh phúc, ngoài việc nặn gốm,” Annlaw trả lời. “Cháu đã sống hạnh phúc ở Merin này. Cháu vẫn có thể được hạnh phúc. Có việc khác cho cháu làm đây. Ta rất vui vì có cháu giúp đỡ, điều đó thật đáng quý đối với ta, với tư cách là một người bạn cũng như một chú học việc. Cháu xem này,” ông vui vẻ nói tiếp, “ngày mai ta sẽ đem đồ gốm đến Làng Isav. Nhưng đi cả một ngày đường thì quá xa xôi với một ông già như ta. Là một người bạn, cháu có thể làm giúp ta việc này được không?” 

Taran gật đầu. “Cháu sẽ đem đồ gốm của ông đến Isav.” Cậu quay đi, lòng biết rằng niềm hạnh phúc của cậu đã chấm dứt, chẳng khác nào một cái bát làm lỗi bị nổ tung trong lò lửa.

Hết chương 19. Mời các bạn đón đọc chương 20!

Nguồn: truyen8.mobi/t38298-bien-nien-su-xu-prydain-chuong-19.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận