Biên Niên Sử Xứ Prydain Chương 1

Chương 1
Con là ai

Đang là giữa xuân, hứa hẹn một mùa hè ấm áp nhất mà trang ấp từng thấy. Khu vườn cây ăn quả trắng xóa những đóa hoa thơm ngát; cánh đồng mới được gieo hạt đã nảy mầm như một màn sương mù xanh. Thế nhưng, những cảnh vật và mùi hương ấy không khiến cho Taran vui vẻ được bao nhiêu. Với cậu, Caer Dallben thật trống trải. Mặc dù cậu vẫn giúp bác Coll rẫy cỏ, cày đất và chăm sóc cô lợn nái màu trắng Hen Wen hết sức cẩn thận như mọi khi, cậu làm việc một cách lơ đãng. Trong đầu cậu chỉ có một ý nghĩ duy nhất.  

“Nào, chàng trai của ta,” Coll hồn hậu nói khi họ làm xong việc vắt sữa buổi sáng, “kể từ khi cháu quay về từ Đảo Mona, ta đã thấy cháu bồn chồn như con sói bị xích vậy. Nếu cháu phải mòn mỏi héo hon mong chờ Công Chúa Eilonwy thì cứ việc, nhưng đừng đánh đổ xô sữa đấy.” Người chiến binh già to khỏe vỗ lên vai Taran. “Vui lên đi. Ta sẽ dạy cho cháu mọi bí quyết của việc gieo củ cải. Hay là trồng cải bắp. Hay bất kỳ điều gì khác mà cháu muốn biết.”

Taran lắc đầu. “Điều cháu muốn biết thì chỉ có mình thầy Dallben mới cho cháu biết được thôi.”

“Nếu vậy thì hãy nghe lời khuyên của ta,” Coll nói. “Đừng có quấy rầy Dallben với những câu hỏi của cháu. Ý nghĩ của cụ ấy dành cho những vấn đề quan trọng hơn nhiều. Hãy kiên nhẫn và chờ một cơ hội tốt.”

Taran đứng bật dậy. “Cháu không thể chờ đợi thêm được nữa. Cháu muốn thưa chuyện với thầy ấy ngay bây giờ.”

“Cẩn thận đấy,” Coll nhắc nhở trong khi Taran bước ra cửa nhà kho. “Tính khí cụ ấy hôm nay không được dễ chịu lắm đâu!”

Taran đi qua cụm nhà kho mái thấp tè của trang trại. Trong căn nhà tranh, bên cạnh lò sưởi, một người đàn bà mặc áo đen đang lom khom ngồi canh lửa bếp. Bà ta không hề ngẩng đầu lên hay nói một tiếng nào. Đó chính là Achren. Sau khi mưu đồ hòng giành lại quyền lực xưa kia của mình từ Lâu Đài Llyr điêu tàn bị thất bại, mụ Nữ Hoàng từng một thời ngạo mạn, đành nhận chốn nương thân Dallben dành cho mình; tuy vậy, chính mụ, kẻ đã từng thống trị Prydain cách đây rất lâu, lại tự nguyện giành lấy những công việc khó nhọc mà Eilonwy đã làm trước khi cô rời đến Mona, và đến đêm, mụ lặng lẽ chui vào cái ổ rơm của mình trong kho thóc.

Đến trước cửa buồng cụ Dallben, Taran ngần ngừ dừng lại, rồi gõ nhanh lên cánh cửa. Được vị pháp sư cho phép, cậu bước vào và thấy Dallben đang cúi đầu đọc cuốn Sách về Bộ Ba được mở ra trên cái bàn viết bừa bãi. Mặc dù rất mong được nhìn qua, dù chỉ là một trang của tập sách bí ẩn ấy thôi, Taran vẫn đứng cách nó thật xa. Một lần, khi còn nhỏ, cậu đã liều sờ vào cuốn sách cổ kính bọc da, và riêng ký ức đó thôi cũng đủ khiến các ngón tay cậu đau buốt rồi.

“Ta chưa bao giờ thôi băn khoăn,” cụ Dallben bực bội lên tiếng, đóng cuốn Sách về Bộ Ba lại và liếc nhìn Taran, “tại sao những người trẻ tuổi, vốn tự hào về sức mạnh của mình đến thế, lại coi những mối bận tâm của bản thân là một gánh nặng chất chồng đến nỗi phải đem ra chia sẻ với người già. Trong khi đó thì những người già...” - cụ phẩy bàn tay xương xẩu, gày gò của mình. “Nhưng không sao, không sao. Để giữ cho lòng ta được thoải mái, ta hi vọng rằng con có một lý do hết sức chính đáng để đến cắt ngang ta như thế này.

“Thứ nhất, trước khi con hỏi,” cụ Dallben nói tiếp, “thì ta xin đảm bảo với con là Công Chúa Eilonwy rất khỏe mạnh và không khổ sở hơn bất kỳ cô gái trẻ, xinh đẹp, liều lĩnh nào khác bị bắt phải học may vá thay vì đấu gươm. Thứ hai, con cũng biết rõ như ta là Quạc chưa quay về. Đến giờ này, thì ta đoán là nó đã đem liều thuốc của ta đến hang của Glew rồi, và gã khổng lồ-bất-đắc-dĩ, kẻ đã gây cho con bao chuyện rắc rối ở đảo Mona, sẽ trở lại hình dáng nhỏ bé trước kia của y. Nhưng con cũng biết chú quạ của con là một tên tinh quái và thường la cà ở những nơi nó thấy có trò thú vị. Cuối cùng, một chàng Phụ-Chăn Lợn phải bận việc đủ để khiến anh ta phải ở bên ngoài chứ. Điều gì đã đưa con đến đây?”

“Chỉ một điều duy nhất thôi ạ,” Taran nói. “Tất cả những gì con có được đều nhờ lòng nhân từ của thầy. Thầy đã cho con một mái nhà và một cái tên, và cho phép con sống trong nhà như một đứa con trai. Thế nhưng thật sự thì con là ai? Cha mẹ con là ai? Thầy đã dạy con rất nhiều điều, nhưng riêng điều này thì thầy lại luôn giữ kín.”

“Nếu như từ trước đến nay nó vẫn luôn là như thế,” cụ Dallben đáp, “thì tại sao bây giờ nó lại khiến con bận lòng?”

Khi thấy Taran cúi đầu xuống và không trả lời, vị pháp sư già mỉm cười với cậu vẻ sắc sảo. “Hãy nói lên đi, cậu bé của ta. Nếu con muốn biết sự thật thì con phải bắt đầu bằng cách nói thật đã. Đằng sau câu hỏi của con, ta thấy có bóng dáng của một cô Công Chúa tóc vàng nào đó thì phải. Có đúng thế không?”

Taran đỏ bừng mặt. “Đúng ạ,” cậu khẽ nói. Cậu ngước lên và nhìn vào mắt cụ Dallben. “Khi Eilonwy quay lại, con... con mong được cầu hôn cô ấy. Nhưng con không thể làm vậy được,” cậu bật kêu lên, “con sẽ không làm vậy chừng nào con chưa biết được mình là ai. Một đứa trẻ bị bỏ rơi không tên tuổi với một cái tên đi mượn chẳng thể cầu hôn một Công Chúa được. Dòng dõi của con ra sao? Con không thể yên lòng, cho đến khi con khám phá ra điều đó. Địa vị của con hèn kém hay cao quý?”

“Theo ý ta thì,” cụ Dallben nhẹ nhàng nói, “điều thứ hai sẽ làm con hài lòng hơn.”

“Đó là hi vọng của con,” Taran thú nhận, vẻ hơi ngượng ngùng. “Nhưng điều đó không quan trọng gì. Nếu có vinh quang, thì, vâng, xin hãy cho con được tận hưởng nó. Nếu có điều đáng hổ thẹn thì xin hãy cho con được đối mặt với nó.”

“Để tận hưởng điều này hay đối mặt với điều kia thì đều cần đến sức mạnh tinh thần như nhau,” cụ Dallben dịu dàng trả lời. Cụ quay gương mặt mệt mỏi của mình sang Taran. “Nhưng than ôi,” cụ nói, “điều con hỏi ta không thể trả lời được. Ông hoàng Gwydion cũng không biết gì hơn ta,” cụ nói tiếp, đoán được ý nghĩ của Taran. “Ngay cả Đức Thượng Hoàng Math cũng không thể giúp con được.”

“Nếu vậy thì xin hãy để con tự mình tìm hiểu lấy,” Taran nói lớn. “Xin thầy hãy cho phép con đi tìm câu trả lời cho mình.”

Cụ Dallben chăm chú ngắm cậu. Cặp mắt của vị pháp sư chạm vào cuốn Sách về Bộ Ba và cụ săm soi nó một hồi lâu, như thể cái nhìn của cụ xuyên qua cả tập sách bọc da đã sờn vậy.

“Một khi táo đã chín rồi,” cụ lẩm bẩm nói một mình, “thì không ai có thể bắt nó xanh trở lại được.” Giọng cụ bỗng nặng trĩu đau buồn khi cụ lên tiếng hỏi Taran, “Đó có phải là điều con mong muốn không?”

Tim Taran đập nhanh hơn. “Con không đòi hỏi điều gì khác cả.”

Cụ Dallben gật đầu. “Thôi thì đành vậy. Con hãy chu du đi, đến bất kỳ nơi nào mà con muốn. Hãy học lấy tất cả những gì con có thể học được.”

“Con xin tạ ơn thầy,” Taran sung sướng reo lên, cúi đầu thật thấp. “Xin cho con được lên đường ngay. Con đã sẵn sàng...”

Trước khi cậu kịp nói xong, cánh cửa bỗng bật mở và một hình thù lông lá bờm xờm xông vào căn buồng, rạp mình xuống dưới chân Taran. “Không, không, không!” Gurgi lấy hết hơi rống lên, mình lắc lư tới lui, hai cánh tay lông lá khua loạn xạ. “Gurgi thính tai đã nghe thấy hết rồi! Ồ, đúng thế, nó đã nghe trộm sau cánh cửa!” Mặt nó nhăn lại vì đau khổ và nó lắc mái đầu bù r ối mạnh đến nỗi suýt nữa thì ngã lăn ra sàn nhà. “Gurgi khốn khổ sẽ phải chịu cảnh cô đơn lẻ bóng, với những tiếng than thở và héo hon đi vì buồn phiền!” Nó rên rỉ. “Ồ, nó phải đi theo cậu chủ cơ, đúng, đúng thế!”

Taran đặt tay lên vai Gurgi. “Ta rất buồn vì phải bỏ mi lại, anh bạn ạ. Nhưng ta e rằng, con đường ta đi sẽ rất dài đấy.”

“Gurgi trung thành sẽ đi theo!” Gurgi van xin. “Nó rất mạnh mẽ, gan dạ và tinh khôn, nó sẽ bảo vệ cậu chủ nhân từ khỏi mọi hiểm nguy đau đớn!”

Gurgi bắt đầu sụt sịt mũi thật to, rền rĩ than khóc vẻ tuyệt vọng hơn cả lúc trước; và Taran, không thể bắt mình từ chối con vật khốn khổ được, liền quay sang nhìn cụ Dallben vẻ dò hỏi.

Một vẻ thương hại kỳ lạ thoáng hiện trên mặt vị pháp sư già. “Ta không nghi ngờ lòng trung thành cũng như sự tinh khôn của Gurgi,” cụ nói với Taran. “Trước khi cuộc tìm kiếm của con kết thúc, tấm lòng nhân hậu của nó có thể sẽ giúp ích cho con rất nhiều đấy. Được,” cụ chậm rãi nói thêm, “nếu Gurgi sẵn lòng thì hãy cho nó đi cùng với con.”

Gurgi reo lên một tiếng hớn hở, và Taran cúi đầu trước vị pháp sư vẻ biết ơn.

“Đành vậy thôi,” cụ Dallben nói. “Đúng là con đường của con sẽ không dễ dàng gì, nhưng con hãy ra đi theo lựa chọn của mình. Mặc dù, có thể con sẽ không thấy được điều mình tìm kiếm, nhưng chắc chắn con sẽ khôn ngoan lên chút ít khi quay trở về - và thậm chí còn có thể tự mình trưởng thành lên một cách chính đáng nữa.”

Đêm đó Taran trằn trọc không yên. Cụ Dallben đã đồng ý cho hai người bạn lên đường sáng hôm sau, nhưng đối với Taran những thời khắc trước lúc bình minh kéo lê chẳng khác nào những mắt xích nặng nề. Một kế hoạch đã hình thành trong đầu cậu, nhưng cậu không nói gì về nó với thầy Dallben, bác Coll hay Gurgi; bởi vì chính cậu vẫn còn thấy chờn chợn về quyết định của mình. Trong khi tim cậu nhói đau với ý nghĩ phải rời bỏ Caer Dallben, chính nó còn nhói đau hơn vì nóng lòng được bắt đầu cuộc hành trình; và dường như cậu đang được thúc giục bởi chính lòng mong mỏi Eilonwy, tình yêu mà cậu thường che giấu hay thậm chí phủ nhận, giờ lại đang trào lên như một dòng lũ.

Trời còn lâu mới sáng, Taran đã thức dậy và đóng yên cho con tuấn mã lông xám bờm bạc Melynlas. Trong khi Gurgi vừa chớp mắt vừa ngáp dài trèo lên yên ngựa của mình, một con ngựa lùn thấp, mập tròn, lông cũng bờm xờm như chính chủ nó, thì Taran một mình đi đến bên chuồng của Hen Wen. Mặc dù đã đoán được quyết định của Taran, cô lợn trắng vẫn ủn ỉn kêu lên vẻ rầu rĩ khi cậu quỳ xuống và vòng tay ôm lấy nó.

“Tạm biệt, Hen,” Taran nói, gãi gãi cái cằm đầy lông cứng của nó. “Hãy luôn nhớ đến tao nhé. Bác Coll sẽ chăm lo cho mày cho đến khi tao... Ôi, Hen,” cậu lẩm bẩm, “liệu rồi tao có kết thúc cuộc tìm kiếm của mình một cách vui vẻ hay không? Mày cho tao biết được không? Mày cho tao một dấu hiệu để tao có thể hi vọng được không?”

Đáp lại, cô lợn có tài tiên tri chỉ khụt khịt và ủn ỉn vẻ lo lắng. Taran thở dài và âu yếm vỗ lên mình Hen Wen một lần cuối. Cụ Dallben đã tập tễnh bước ra sân, và bên cạnh cụ, bác Coll đang giơ cao một cây đuốc, vì trời hãy còn tối. Cũng giống như cụ Dallben, gương mặt người chiến binh già trong ánh lửa bập bùng đầy vẻ lo lắng thương yêu. Taran ôm hôn họ, và với cậu, dường như tình yêu cậu dành cho cả hai người chưa bao giờ lớn lao như trong buổi tiễn đưa này, khi họ nói những lời từ biệt.

Gurgi khom vai, ngồi trên lưng con ngựa lùn. Trên vai nó là chiếc túi da đựng thức ăn không bao giờ cạn. Chỉ đeo có thanh gươm bên thắt lưng và chiếc tù và bọc bạc mà Eilonwy đã tặng cho cậu, Taran trèo lên lưng Melynlas đang bồn chồn, cố ngăn mình không ngoái lại phía sau, vì biết rằng, nếu nhìn lại, cuộc chia tay sẽ chỉ càng khiến cậu thêm đau đớn.

Hai người lữ hành đều đặn thúc ngựa tiến tới, trong khi mặt trời lên cao hơn, bên trên những ngọn đồi nhấp nhô viền bằng các rặng cây. Taran không nói nhiều, còn Gurgi cũng lặng lẽ cưỡi ngựa theo sau cậu, chốc chốc lại thò tay vào túi lấy ra một nắm thức ăn và nhai nhóp nhép vẻ mãn nguyện. Khi họ dừng lại bên một dòng suối để cho ngựa uống nước, Gurgi xuống yên và đi đến bên Taran.

“Hỡi cậu chủ nhân từ,” nó kêu lên, “Gurgi trung thành luôn đi theo sự chỉ dẫn của cậu chủ, ồ vâng! Cậu định đi đến đâu trước tiên? Đến chỗ Ông hoàng Gwydion cao quý ở Caer Dathyl chăng? Gurgi rất muốn được nhìn thấy những tòa tháp cao vút vàng rực và những gian đại sảnh lớn bày yến tiệc.”

“Ta cũng vậy,” Taran trả lời. “Nhưng đến đó thì chỉ mất công vô ích mà thôi. Thầy Dallben đã bảo với ta là Ông hoàng Gwydion và Vua Math không hay biết gì về nguồn gốc của ta cả.”

“Thế thì đến vương quốc của Fflewddur Fflam chăng? Vâng, vâng! Chàng ca sĩ hát rong gan dạ sẽ đón chào chúng ta với những tiếng đàn hát vui tươi!”

Taran mỉm cười trước vẻ háo hức của Gurgi, nhưng cậu lắc đầu. “Không, anh bạn của ta ạ, chúng ta sẽ không đến Caer Dathyl cũng như vương quốc của Fflewddur.” Cậu đưa mắt nhìn về hướng Tây. “Ta đã nghĩ rất kỹ rồi, và ta tin rằng, ta chỉ có thể thấy được điều ta đang tìm kiếm ở một nơi duy nhất mà thôi,” cậu chậm rãi nói. “Khu Đầm Lầy Morva.”

Cậu vừa dứt lời thì thấy mặt Gurgi tái đi. Miệng con vật há hốc; nó chụp tay lên ôm lấy mái đầu bờm xờm, và bắt đầu thở hổn hển, nghẹn ngào nghe phát sợ.

“Không, ồ, không!” Gurgi hú lên. “Có rất nhiều mối hiểm nguy đang rình rập ở khu Đầm Lầy xấu xa! Gurgi can đảm nhưng thận trọng rất lo sợ cho cái đầu yếu ớt, khốn khổ của nó! Nó muốn không bao giờ phải quay lại nơi ấy nữa. Những mụ phù thủy đáng sợ sẽ biến nó thành con cóc nhảy tưng tưng mất! Ôi, Orddu khủng khiếp! Orwen khủng khiếp! Và Orgoch, ôi, Orgoch là kẻ đáng sợ hơn cả!”

“Đúng thế, ta có ý định đối mặt với họ một lần nữa,” Taran nói. “Orddu, Orwen và Orgoch - bà ta, hoặc là họ, cho dù họ có là gì đi chăng nữa - cũng có phép th uật cao cường không kém gì thầy Dallben. Có lẽ còn cao cường hơn nữa kia. Không điều gì có thể lọt khỏi mắt họ; mọi điều bí mật đều được phơi bày. Hẳn họ sẽ biết được sự thật. Liệu có thể,” cậu nói tiếp, giọng khấp khởi hi vọng, “liệu cha mẹ ta có thể thuộc dòng dõi cao quý không? Và vì một lý do bí ẩn nào đó họ phải gửi ta cho thầy Dallben nuôi nấng?”

“Nhưng cậu chủ nhân từ rất cao quý mà!” Gurgi kêu lên. “Cao quý, hào phóng, và tử tế biết bao với Gurgi hèn mọn! Không cần phải hỏi mụ phù thủy nào hết!”

“Ta nói đến dòng dõi quý tộc kia,” Taran trả lời, mỉm cười trước những lời phản đối của Gurgi. “Nếu thầy Dallben không thể cho ta biết, thì Orddu có thể. Bà ta có chịu nói không ư, ta không biết,” cậu thêm vào. “Nhưng ta phải thử xem sao.”

“Ta sẽ không bắt mi phải liều đưa cái đầu yếu ớt, khốn khổ của mình ra đâu,” Taran nói tiếp. “Mi hãy tìm một chỗ trốn ở bìa khu Đầm Lầy và đợi ta ở đó.”

“Không, không,” Gurgi rền rĩ. Nó chớp chớp mắt vẻ rầu rĩ và giọng nó hạ xuống thấp đến nỗi Taran gần như không nghe nổi tiếng thì thào run rẩy của nó. “Gurgi trung thành sẽ đi theo, đúng như nó đã hứa.”

Họ lại lên đường. Suốt mất ngày liền, sau khi vượt qua dòng Đại Avren, họ đi về hướng Tây dọc theo những con dốc xanh tươi bên bờ sông, và miễn cưỡng rời khỏi đó để rẽ sang phía Bắc, ngang qua một cánh đồng hoang. Mặt Gurgi nhăn lại vẻ đầy lo sợ, và Taran cảm thấy con vật cũng bồn chồn không kém gì cậu. Càng đến gần khu Đầm Lầy, cậu càng nghi ngờ không biết lựa chọn của mình có thật sáng suốt hay không. Kế hoạch của cậu, khi còn ở Caer Dallben thì hợp lý là thế, giờ bỗng trở thành một việc mạo hiểm, hấp tấp, liều lĩnh. Có những lúc, Taran phải tự thú nhận với chính mình, nếu Gurgi quay con ngựa lùn lại và phóng về nhà, thì cậu cũng sẵn sàng vui sướng làm theo.

Thêm một ngày đường nữa và vùng đầm lầy đã trải dài trước mặt họ, hoang vắng, xấu xí, không hề có chút hơi thở nào của mùa xuân. Cảnh tượng và mùi hôi hám của những bãi lầy cùng những vũng nước tù đọng khiến Taran tràn ngập sự ghê tởm. Lớp cỏ thối rữa tham lam níu lấy vó Melynlas. Con ngựa lùn khiếp sợ thở phì phò. Cảnh báo cho Gurgi bám sát mình và không được đi chệch sang phải hay sang trái, Taran thận trọng hướng con tuấn mã qua đám lau sậy mọc cao ngang vai, bám theo dải đất chắc chắn hơn bên bờ khu đầm lầy.

Họ có thể vượt qua con đường thắt cổ chai hẹp ở khúc trên của khu Đầm Lầy và gặp phải ít nguy hiểm nhất, và đúng là lối đi ấy đã in dấu trong trí nhớ cậu. Chính ở đây, khi cậu và Eilonwy, Gurgi và Fflewddur đi lùng kiếm chiếc Vạc Dầu Đen, bọn Thợ Săn của Annuvin đã tấn công họ, và Taran đã phải sống lại khoảnh khắc ấy, không biết bao nhiêu lần trong những cơn ác mộng. Thả cương cho Melynlas tự do bước đi, cậu ra hiệu cho Gurgi và bắt đầu tiến vào khu Đầm Lầy. Con tuấn mã loạng choạng trong một thoáng thót tim, rồi lấy lại được thăng bằng trên một chuỗi các mô đất nằm bên dưới làn nước lợ. Khi sang đến bờ bên kia, không đợi Taran thúc, Melynlas chuyển sang phóng nước đại, và con ngựa lùn cũng lao theo, như thể đang tìm cách chạy thoát thân. Sau khi vượt qua rặng cây còi cọc ở cuối một cái mương dài, Taran dừng lại. Căn nhà tranh của Orddu nằm ngay trước mặt cậu.

Dựng ở bên một sườn đồi cao, bị che khuất một nửa bởi đám cỏ và các cành cây, căn nhà nom còn có vẻ tồi tàn hơn cả trong trí nhớ của Taran. Lớp mái rạ, như một cái tổ chim khổng lồ, xơ xác rũ xuống, che kín cả những ô cửa sổ hẹp; một lớp nấm mốc phủ trên những bức tường trông như sắp đổ xuống bất kỳ lúc nào. Đứng ở khung cửa ra vào xiêu vẹo chính là Orddu.

Tim đập thình thịch, Taran nhảy từ trên yên cương xuống. Đầu ngẩng cao, trong sự tĩnh lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng răng Gurgi đánh vào nhau lập cập, cậu chậm rãi bước ngang qua sân. Orddu ngắm nhìn cậu bằng cặp mắt đen sắc sảo. Nếu có ngạc nhiên thì bà phù thủy già cũng không thể hiện một dấu hiệu nào khác ngoại trừ cúi về phía trước một chút và nhìn Taran chăm chú hơn. Chiếc áo dài kỳ dị của bà ta đập phần phật vào đầu gối; những chiếc trâm cài nạm ngọc trong mái tóc bù rối của bà lấp lánh trong khi bà ta gật đầu lia lịa, vẻ hài lòng thấy rõ.

“Phải, đúng là chúng rồi!” Orddu vui vẻ kêu lên. “Chú chim non đáng yêu và... - cái con gì-gì-đó ấy. Nhưng con đã cao lên nhiều quá, con vịt của ta ạ. Giả thử, nếu con muốn trèo xuống một cái hang thỏ thì hẳn sẽ vướng víu lắm nhỉ. Vào đi, vào đi,” bà ta vội vã nói tiếp, vẫy tay ra hiệu. “Sao mà trông con xanh xao thế, tội nghiệp. Con không bị ốm đấy chứ?”

Taran đi theo bà ta, không phải là không với chút lo ngại, trong khi Gurgi run rẩy bám lấy cậu. “Hãy cẩn trọng, cẩn trọng,” con vật rền rĩ. “Những lời chào đón nồng nhiệt khiến cho Gurgi lạnh cóng cả người.”

Ba mụ phù thủy, theo như Taran thấy, đều đang bận bịu việc nhà. Orgoch, chiếc mũ trùm đen che kín mặt, ngồi trên một cái ghế đẩu ọp ẹp, đang cố chải những nút rối ra khỏi một ôm len nhưng không làm được mấy. Orwen, nếu đó đúng là Orwen thật, thì đang quay một cái sa xe sợi vẹo vọ; những hạt cườm trắng như sữa lủng lẳng trên cổ bà ta dường như sắp sửa vướng vào các nan hoa đến nơi. Còn người mà cậu đoán là Orddu thì ngồi bên một cái khung cửi đặt giữa hàng đống vũ khí rỉ sét ở một góc nhà. Tấm vải trên khung đã được dệt thêm một chút, nhưng còn lâu mới xong; những sợi chỉ thắt nút xoắn xuýt rủ xuống khắp mọi hướng, và những thứ nom giống như mấy nút len rối của Orgoch đã vướng cả vào các sợi dọc và ngang. Taran không thể nhìn ra được những hoa văn trên tấm vải, mặc dù cậu thấy, như thể cặp mắt đang chơi khăm cậu, có những hình thù lờ mờ nom như người và thú vật đang chuyển động qua các sợi vải.

Nhưng cậu không kịp ngắm tấm vải kỳ lạ cho kỹ hơn. Orwen rời khỏi chiếc sa và vội bước đến bên cậu, vỗ tay vẻ hớn hở.

“Chú gà nhép lang thang và con gurgi!” Bà ta kêu lên. “Thế bé Dallben thân yêu giờ ra sao rồi? Nó vẫn còn cuốn Sách về Bộ Ba đấy chứ? Còn bộ râu của nó thế nào? Hẳn với thằng bé nó nặng lắm nhỉ? Cuốn sách ấy, không phải là bộ râu đâu,” bà ta nói thêm. “Nó không đi cùng với con ư? Tiếc quá. Nhưng không sao. Có khách đến thăm thật thú vị biết bao.”

“Tôi không thích có khách đến thăm,” Orgoch lẩm bẩm, ném mớ len xuống đất. “Chúng làm tôi khó chịu lắm.”

“Tất nhiên là thế rồi, đồ tham lam!” Orwen gay gắt đáp lại. “Thảo nào, chúng ta chẳng bao giờ có người khách nào cả.”

Nghe vậy, Orgoch phì một tiếng và lầm bầm trong họng. Bên dưới chiếc mũ trùm đen, Taran thoáng thấy mặt bà ta nhăn nhúm lại.

Orddu giơ tay lên. “Đừng để ý đến Orgoch,” bà ta nói. “Hôm nay bà ta hơi khó ở, tội nghiệp. Lẽ ra đã đến lượt Orwen phải làm Orgoch, và Orgoch rất nóng lòng muốn được làm Orwen. Giờ thì bà ta lại phải thất vọng, vì đến phút cuối Orwen lại từ chối -  nhưng ta cũng không thể trách bà ta được,” Orddu thì thầm. “Ta cũng chẳng thích thú gì khi phải làm Orgoch. Nhưng chúng ta sẽ tìm cách nào đó để bù lại cho bà ta.”

“Còn con,” Orddu nói tiếp với một nụ cười làm gương mặt bà ta nhăn cả lại, “con đúng là kẻ táo gan nhất trong số các chú ngỗng con táo bạo đấy. Chẳng có mấy ai ở Prydain này dám đến khu Đầm Lầy Morva, và trong số ít ỏi ấy thì chưa có ai dám quay trở lại. Có lẽ Orgoch đã khiến họ nản chí. Chỉ có một mình con làm được điều đó thôi đấy, chú gà con của ta ạ.”

“Ôi, Orddu, nó đúng là một anh hùng can đảm,” Orwen xen vào, nhìn Taran với vẻ ngưỡng mộ như một cô thiếu nữ thẹn thùng.

“Đừng nói vớ vẩn, Orwen,” Orddu trả lời. “Anh hùng hay không là một chuyện. Tôi không phủ nhận là có những dịp thằng bé đã tỏ ra rất can đảm. Nó đã chiến đấu bên cạnh ông hoàng Gwydion và đã tỏ ra kiêu hãnh như một con gà được đeo lông đại bàng vậy. Nhưng đó là một loại dũng cảm. Chú chim cổ đỏ đáng yêu này đã tự mình đi tìm lấy giun chưa? Đó lại là một lòng dũng cảm thuộc loại khác hẳn. Và giữa hai loại thì, Orwen thân mến ạ, thằng bé có thể thấy rằng lòng dũng cảm thứ hai lại vĩ đại hơn đấy.” Mụ phù thủy quay sang Taran. “Nhưng hãy nói lên đi nào, con chim non của ta. Tại sao con lại đến tìm chúng ta một lần nữa?”

“Đừng trả lời,” Orwen ngắt lời. “Để chúng ta tự đoán lấy. Ôi, ta thích những trò chơi thế này lắm, chỉ có điều Orgoch lúc nào cũng làm chúng mất cả thú.” Bà ta cười khúc khích. “Con hãy cho chúng ta đoán một ngàn lẻ ba lần và ta sẽ là người hỏi đầu tiên đấy.”

“Được thôi, Orwen, nếu bà thích,” Orddu độ lượng nói. “Nhưng một ngàn lẻ ba có đủ không? Một chú cừu con có thể ao ước nhiều điều hơn thế chứ.”

“Các bà vốn luôn quan tâm đến mọi việc đúng như hiện trạng của chúng,” Taran nói, bắt mình nhìn thẳng vào mắt mụ phù thủy, “và mọi việc đúng như chúng phải diễn ra. Tôi tin rằng các bà đã biết rõ cuộc hành trình của tôi từ đầu đến cuối, và rằng tôi đang đi tìm kiếm nguồn gốc của mình.”

“Nguồn gốc ấy ư?” Orddu nói. “Thật chẳng có gì dễ dàng hơn. Hãy chọn bất kỳ người cha người mẹ nào mà con muốn. Bởi vì con và họ đều không hề quen biết nhau từ trước, thì nó có thể thay đổi được điều gì cơ chứ - cho dù là đối với họ hay là đối với con đi chăng nữa? Hãy tin vào bất kỳ điều gì con muốn. Con sẽ ngạc nhiên khi thấy điều đó dễ chịu đến mức nào đấy.”

“Tôi không đòi hỏi điều dễ chịu nào cả,” Taran đáp, “ngoại trừ sự thật, cho dù nó là đau đớn hay vui vẻ.”

“A, con chim cổ đỏ thân yêu của ta,” Orddu nói, “để tìm được điều đó thì không có gì khó khăn hơn. Có những người đã bỏ ra cả đời để tìm kiếm nó, và phải chịu những cảnh ngộ khốn cùng hơn cả con nữa kia.”

“Cách đây đã lâu rồi, có một chú ếch nọ,” Orddu vui vẻ nói tiếp. “Ta còn nhớ nó rất rõ, con vật tội nghiệp; nó không bao giờ biết chắc rằng mình là một con vật trên cạn thích bơi dưới nước, hay là một con vật dưới nước thích nằm phơi nắng trên những khúc gỗ trên cạn nữa. Chúng ta đã biến nó thành một con cò rất mê ăn ếch, và từ đó trở đi nó không bao giờ còn nghi ngờ về việc mình là ai nữa - và cả các con ếch khác cũng vậy. Chúng ta sẽ rất vui lòng làm giúp con một điều tương tự.”

“Cho cả hai ngươi,” Orgoch nói.

“Không!” Gurgi thét lên, chúi xuống nấp sau lưng Taran. “Ôi, cậu chủ nhân từ, Gurgi đã cảnh báo trước cho cậu về những thay đổi và dàn xếp đáng sợ mà!”

“Đừng quên con rắn đấy nhé,” Orwen bảo Orddu, “luôn luôn bực dọc và bối rối vì không biết da nó màu xanh có đốm nâu hay là màu nâu với đốm xanh nữa. Chúng ta đã biến nó thành một con rắn vô hình,” bà ta nói thêm, “với các đốm nâu và xanh, để người ta có thể nhìn thấy nó rõ ràng và không giẫm lên nó. Nó rất biết ơn chúng ta và từ đó về sau, đầu óc nó thư thái hơn nhiều.”

“Và tôi còn nhớ,” Orgoch hắng giọng, khàn khàn nói, “còn có một con...”

“Yên nào, Orgoch,” Orwen ngắt lời. “Những câu chuyện của bà lúc nào cũng kết thúc thật là - thật là không hay ho chút nào.”

“Con thấy đấy, chú gà con của ta,” Orddu nói, “chúng ta có rất nhiều cách để giúp con, cách nào cũng nhanh chóng và đơn giản hơn là con tưởng nhiều. Con thích trở thành cái gì nào? Nếu con muốn biết ý kiến của ta thì ta đề nghị con nên biến thành một chú nhím, như vậy sẽ an toàn hơn cả. Nhưng đừng để ta ảnh hưởng đến lựa chọn của con; quyền quyết định hoàn toàn thuộc về con.”

“Ngược lại, hãy làm bọn nhóc ngạc nhiên đi,” Orwen vui vẻ reo lên đầy phấn khích. “Chúng ta sẽ bàn bạc với nhau và miễn cho chúng cái việc buồn tẻ là phải tự quyết định lấy. Chúng sẽ càng thêm vui sướng mà thôi. Sẽ thích thú biết bao khi được nhìn thấy dáng vẻ trên khuôn mặt của chúng - hay trên cái mỏ hay bất kỳ cái gì khác mà chúng sẽ có.”

“Không chim chóc gì hết,” Orgoch cằn nhằn. “Dù thế nào đi chăng nữa thì cũng không chim chóc gì hết. Không chịu nổi chúng. Lông chim làm tôi ho.”

Nỗi sợ của Gurgi đã dâng lên đến độ nó chỉ có thể lắp bắp không thành tiếng. Taran cảm thấy máu mình cũng đang đông cứng lại. Orddu đã bước tới trước một bước và Taran chộp lấy thanh gươm của mình thủ thế. 

“Kìa, chú gà nhép của ta,” Orddu vui vẻ nói, “đừng mất bình tĩnh, nếu không thì con sẽ mất nhiều hơn thế đấy. Con biết thanh gươm của con ở đây là vô dụng, và vung gươm loạn xạ không phải là cách khiến người ta suy nghĩ rõ ràng đâu. Chính con đã quyết định đặt mình vào tay chúng ta mà.”

“Tayấy à?” Orgoch gầm gừ. Từ trong bóng tối của chiếc mũ trùm, mắt bà ta lóe lên ánh đỏ và mồm bà ta bắt đầu giật giật.

Taran vẫn đứng vững. “Orddu,” cậu nói, cố giữ cho giọng mình thật điềm tĩnh, “bà có định nói cho tôi biết điều tôi muốn biết không? Nếu không, chúng tôi sẽ đi đường của mình.”

“Chúng ta chỉ cố tìm cách làm cho mọi việc dễ dàng hơn cho con mà thôi,” Orwen nói, giẩu môi và mân mê chuỗi hạt cườm của mình. “Đừng mếch lòng chứ.”

“Tất nhiên là chúng ta sẽ nói cho con biết, con nòng nọc can đảm của ta ạ,” Orddu nói. “Con sẽ biết được tất cả những điều con tìm kiếm, ngay sau khi chúng ta thu xếp xong một chuyện khác: cái giá phải trả. Bởi vì điều con muốn biết quan trọng quá - ít nhất là đối với con - nên giá sẽ hơi cao đấy. Nhưng ta chắc là con đã nghĩ đến điều đó trước khi tới đây rồi.”

“Khi chúng tôi đến tìm chiếc Vạc Dầu Đen,” Taran mở lời, “bà đã bắt tôi trả giá bằng chiếc trâm cài thần kỳ của Adaon, vật mà tôi quý trọng hơn cả. Từ đó đến nay tôi không tìm được vật gì quý giá hơn nữa.”

“Nhưng, con gà con của ta ơi,” Orddu nói, “việc trao đổi đó diễn ra đã lâu quá rồi, đã xong xuôi hết rồi. Con nói rằng, con không đem gì theo ư? Sao, nếu vậy thì hãy tự coi mình là may mắn đi nếu được biến thành một con nhím, vì con không có khả năng trả giá cho bất kỳ cái gì khác đâu.”

“Lần trước,” Orgoch khàn khàn thì thầm vào tai Orddu, “bà đã định lấy đi một ngày hè của chú cừu non này, và nó đã có thể là một miếng ngon lành biết bao.”

“Lúc nào bà cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình thôi, Orgoch ạ,” Orddu nói. “Ít ra, bà cũng phải cố nghĩ xem tất cả chúng tôi muốn gì chứ.”

“Hồi ấy có một cô bé tóc vàng đi cùng với nó,” Orwen xen vào, “một cô bé nhỏ nhắn, xinh xắn biết bao. Hẳn nó có những ký ức rất tươi đẹp về cô bé. Chúng ta có thể lấy chúng đi được không nhỉ?” Bà ta háo hức nói tiếp. “Sẽ thú vị biết bao khi trải chúng ra để ngắm nhìn vào những đêm đông dài đằng đẵng. Than ôi, thằng bé sẽ không còn lại điều gì cho riêng mình, nhưng tôi nghĩ đó cũng là một món hời đấy.”

Taran nghẹt thở. “Ngay cả bà cũng không thể tàn nhẫn đến vậy được.”

“Thế sao?” Orddu đáp lại, mỉm cười. “Lòng thương hại, con ngỗng nhỏ của ta ạ - ít nhất là lòng thương hại như con vẫn biết - chỉ đơn giản là không khiến chúng ta quan tâm chút nào. Tuy nhiên,” bà ta nói tiếp, quay sang Orwen, “điều đó cũng không được. Chúng ta đã có nhiều ký ức quá rồi.”

“Vậy thì xin hãy nghe tôi,” Taran kêu lên, vươn thẳng người cho thật cao. Cậu siết chặt tay để giữ cho chúng khỏi run lên. “Đúng là tôi không có báu vật gì, thậm chí không có cả cái tên của chính mình nữa. Các bà không chịu nhận gì của tôi ư? Vậy thì tôi xin dâng cho các bà một điều,” cậu hạ giọng nói tiếp thật nhanh. Cậu cảm thấy trán mình đang rịn mồ hôi ướt đẫm. Mặc dù cậu đã quyết định điều này khi còn ở Caer Dallben và đã cân nhắc nó rất kỹ càng, song trong lúc này, cậu lại suýt nao núng và chỉ mong được quay đi.

“Nếu sau này trong đời, tôi có tìm được điều gì giá trị,” Taran nói, “báu vật quý giá nhất mà tôi có thể giành được - thì tôi xin trao nó cho các bà làm tin. Nó sẽ thuộc về các bà, và các bà có thể lấy nó bất kỳ khi nào các bà muốn.”

Orddu không trả lời mà chỉ chăm chú ngắm nhìn cậu. Hai mụ phù thủy kia cũng im lặng. Ngay cả Gurgi cũng thôi không rền rĩ nữa. Những hình thù trên khung cửi dường như đang chuyển động ngay trước mắt Taran trong khi cậu chờ đợi Orddu lên tiếng.

Mụ phù thủy mỉm cười. “Cuộc hành trình của con có ý nghĩa đến nỗi, con sẵn sàng đem điều mà mình chưa đạt được ra để đánh đổi hay sao?”

“Hoặc điều không bao giờ đạt được,” Orgoch nói.

“Tôi không thể dâng cho các bà thứ gì hơn được nữa,” Taran kêu lên. “Các bà không thể từ chối tôi được.”

“Việc trao đổi mà con đề nghị đó,” Orddu nói với giọng thân mật, “là một điều phụ thuộc rất nhiều vào may rủi, và không thể khiến ai thỏa mãn. Không có điều gì lại có thể chắc chắn đến vậy, và thường thường chúng ta thấy là con chim sẻ khốn khổ nào hứa hẹn một điều như vậy, chẳng bao giờ sống đủ lâu để thực hiện được lời hứa của mình. Nếu hắn có sống sót thì lại luôn xảy ra chuyện rủi ro khi hắn đâm ra - nói thế nào nhỉ - hơi bướng bỉnh một chút? Mọi việc thường kết thúc không lấy gì làm vui vẻ. Một lần, chúng ta đã chấp nhận một lời hứa như vậy đấy. Nhưng những kinh nghiệm đáng buồn đã khiến chúng ta phải dừng chuyện ấy lại. Không, con chim non của ta ạ, không thể được. Chúng ta rất tiếc; ý ta là, tiếc đến hết mức mà chúng ta có thể tiếc.”

Giọng nói của Taran nghẹn lại trong cổ cậu. Trong một thoáng, nét mặt của mụ phù thủy bỗng thay đổi; cậu không biết chắc là mình đang đối mặt với Orddu, Orwen hay là Orgoch nữa. Như thể, trước mặt cậu vừa nhô lên một bức tường băng mà không sức mạnh nào có thể phá vỡ, không lời van xin nào có thể làm tan chảy. Nỗi tuyệt vọng khiến cậu nghẹt thở. Cậu gục đầu xuống và quay đi.

“Nhưng, con ngỗng con thân yêu của ta,” Orddu vui vẻ cất tiếng gọi, “điều đó không có nghĩa là không có những người khác khả dĩ trả lời câu hỏi của con.”

“Tất nhiên là có rồi,” Orwen thêm vào, “và để thấy được thì chỉ mất công đi tìm mà thôi.”

“Đó là ai vậy?” Taran nôn nóng hỏi, bám lấy hi vọng mới này.

“Ta nhớ có một con chim két lông nâu-và-cam, cứ mỗi năm một lần lại bay đến Đỉnh Kilgwyry để mài mỏ,” Orwen nói. “Nó biết hết mọi việc trên đời. Nếu con đủ kiên nhẫn, con có thể đợi và hỏi nó xem sao.”

“Ôi, Orwen,” Orddu ngắt lời vẻ sốt ruột, “đôi khi tôi cho là bà nghĩ về thời xa xưa nhiều quá đấy. Đỉnh Kilgwyry đã bị chú chim ấy mài mòn từ lâu rồi và chú chim nhỏ đáng yêu đó đã bay đi nơi khác rồi.”

“Bà nói đúng quá, Orddu thân mến ạ,” Orwen đáp. “Trong một chốc tôi quên bẵng đi mất đấy. Nhưng thế còn con cá hồi trong Hồ Llew thì sao? Tôi chưa bao giờ gặp một con cá thông thái hơn.”

“Đi rồi,” Orgoch lầm bầm, rít hơi qua kẽ răng. “Đi từ lâu rồi.”

“Dù sao thì chim két và cá hồi cũng chỉ là bóng chim tăm cá,” Orddu nói. “Một thứ chắc chắn hơn sẽ giúp được con tốt hơn nhiều. Con có thể thử hỏi Tấm Gương Llunet xem sao.”

“Tấm Gương Llunet ư?” Taran nhắc lại. “Tôi chưa bao giờ nghe nói đến nó cả. Nó là cái gì vậy? Nó ở đâu...”

“Tốt hơn cả,” Orgoch xen vào, “thằng bé có thể ở lại với chúng ta. Và cả con gurgi nữa.”

“Hãy cố tự kiềm chế đi nào, Orgoch thân mến, khi mà tôi đang giải thích điều gì đó,” Orddu nói, rồi quay lại với Taran. “Đúng thế, có lẽ nếu con nhìn vào nó thì Tấm Gương Llunet có thể cho con biết điều gì đó thú vị đấy.”

“Nhưng ở đâu chứ,” Taran lại hỏi.

“Ở xa lắm,” Orgoch lầm bầm. “Hãy ở lại đây đi.”

“Ở Rặng Núi Llawgadarrn,” Orddu trả lời, nắm lấy cánh tay cậu, “nếu nó chưa bị chuyển đi nơi khác. Nhưng đi thôi nào, con ngỗng nhỏ của ta. Orgoch đang bắt đầu sốt ruột rồi đấy. Ta biết, bà ấy sẽ rất thích con ở lại đây, và với hai điều thất vọng trong cùng một ngày thì ta không thể đảm bảo cho cách cư xử của bà ta đâu.”

“Nhưng làm sao tôi có thể tìm được nó?” Taran chỉ còn có thể lắp bắp hỏi trước khi cậu bị đẩy ra khỏi căn nhà tranh, với Gurgi run rẩy chạy bên cạnh.

“Đừng chần chừ nán lại khu Đầm Lầy,” Orddu gọi với theo, trong khi Taran nghe thấy những tiếng ồn ào, tức tối vọng ra từ trong nhà. “Nếu không thì con sẽ phải hối tiếc vì sự táo bạo ngốc nghếch - hay là sự ngốc nghếch táo bạo của mình đấy, cái nào cũng thế cả. Tạm biệt nhé, con chim cổ đỏ của ta.”

Ô cửa xiêu vẹo đóng sập lại, ngay cả khi Taran hét gọi Orddu đợi đã.

“Chạy thôi!” Gurgi hét lên. “Hãy chạy đi thôi, hỡi cậu chủ nhân từ, trong khi cái đầu yếu ớt khốn khổ của Gurgi vẫn còn nằm trên vai nó.”

Bất chấp con vật đang điên cuồng giật tay cậu, Taran đứng nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Mọi ý nghĩ của cậu đảo lộn, một cảm giác lạ lùng đè nặng lên cậu.

“Tại sao bà ta lại chế nhạo lòng can đảm của ta chứ?” cậu nói, nhíu mày. “Đủ can đảm để tự tìm lấy giun ư? Điều đó dễ làm hơn là đi tìm Tấm Gương Llunet nhiều.”

“Nhanh lên!” Gurgi van xin. “Gurgi đã du hành đủ lắm rồi. Giờ thì nó sẵn sàng quay trở về Caer Dallben an toàn và hạnh phúc, vâng, vâng! Ôi, xin đừng lùng sục tìm kiếm vô ích làm gì nữa!”

Taran vẫn còn chần chừ một lúc nữa. Cậu chỉ biết rằng Rặng Núi Llawdagarn nằm ở phía Đông. Không có gì dẫn đường, cuộc hành trình của cậu có thể thật sự trở thành vô ích. Gurgi van vỉ nhìn cậu. Taran vỗ vai con vật, rồi quay đi và bước đến bên Melynlas.

“Tấm Gương Llunet là niềm hi vọng duy nhất mà Orddu cho ta,” Taran nói. “Ta phải đi tìm nó.”

Trong khi Gurgi vội vã trèo lên lưng con ngựa lùn của mình, Taran trèo lên lưng Melynlas. Cậu liếc nhìn căn nhà tranh một lần nữa, và bỗng thấy lo lắng không yên. “Cho ta ư?” cậu lẩm bẩm. “Orddu liệu có bao giờ cho không cái gì?”

Hết chương 1. Mời các bạn đón đọc chương 2!

Nguồn: truyen8.mobi/t38265-bien-nien-su-xu-prydain-chuong-1.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận