Từ Caer Cadarn, nhóm bạn đi được một quãng đường dài và chỉ mấy ngày sau đã vượt qua Sông Ystrad, ở đó Fflewddur dẫn họ đi dọc bờ sông một hồi lâu trước khi quay về hướng Bắc qua các Vương Quốc Sơn Dã. Không giống như các Vương quốc Thung Lũng, vùng đất này phủ một màu xám xịt của sỏi đá. Taran thấy nơi trước kia có lẽ là những thảo nguyên xanh tươi giờ mọc đầy bụi rậm, và những dải rừng trải dài, kín đặc dây leo nhằng nhịt sầm tối.
Fflewddur thú nhận, những chuyến đi lang thang của anh ta ít khi dẫn anh đến vùng này. “Các lãnh chúa ở đây tinh thần cũng ảm đạm như chính đất đai của họ vậy. Thử chơi điệu nhạc vui nhộn nhất, và may ra họ sẽ tặng cho một nụ cười chua chát. Thế mà, nếu các truyền thuyết nói đúng, thì những vương quốc này đã từng giàu có không kém bất kỳ nơi nào khác trên khắp Prydain. Giống cừu của các Vương Quốc Sơn Dã - ôi Belin Vĩ Đại, người ta bảo, rằng lông chúng dày đến nỗi ta có thể thọc tay vào đến tận khuỷu cơ đấy! Bây giờ thì, than ôi, chúng hóa xơ xác cả rồi.”
“Aeddan kể cho tôi nghe là Arawn Chúa tể Tử địa đã cướp đi rất nhiều bí mật của các nông dân vùng thung lũng,” Taran đáp. “Chắc hẳn hắn cũng đã cướp cả đàn cừu của các Vương Quốc Sơn Dã.”
Fflewddur gật đầu. “Chẳng còn mấy báu vật mà không bị hắn cướp mất hay tàn phá, ngoại trừ kho báu của người dân Mỹ Tộc, và ngay cả Arawn cũng phải nghĩ lại trước khi sinh sự với họ. Dù thế nào đi nữa,” anh nói tiếp, “thì tôi cũng không bao giờ muốn đánh đổi các Vương Quốc Phương Bắc lấy bất kỳ nơi nào ở đây. Ở đó, chàng trai của tôi ạ, chúng tôi không có cừu, nhưng lại có các ca sĩ và chiến binh nổi tiếng nhất! Tất nhiên, Dòng họ Fflam đã trị vì ở đó từ... từ rất lâu rồi. Trong huyết quản của người họ Fflam,” chàng ca sĩ tuyên bố, “là dòng máu hoàng tộc các Con Trai của Don! Chính Ông hoàng Gwydion là họ hàng của tôi. Họ xa - họ xa thôi, đúng thế,” anh ta vội vã nói thêm, “nhưng dù sao thì vẫn là họ hàng.”
“Gurgi không quan tâm đến giống cừu nổi tiếng hay các chàng ca sĩ có lông dày,” Gurgi rầu rĩ lẩm bẩm. “Nó rất sung sướng ở Caer Dallben, ồ, đúng thế, và ước gì nó sớm được quay lại đó.”
“Về chuyện đó thì,” Fflewddur đáp, “tôi sợ rằng các vị sẽ phải làm một cuộc hành trình vất vả trước khi được thấy lại quê nhà đấy. Ai mà biết được phải mất bao lâu mới tìm được Tấm Gương của cậu. Tôi sẽ đi với cậu xa đến hết mức tôi có thể,” anh nói với Taran, “nhưng không sớm thì muộn tôi cũng phải trở về vương quốc của mình. Thần dân của tôi luôn nóng lòng mong tôi quay lại...”
Cây đàn hạc bỗng rung lên dữ dội khi một sợi dây bật đứt làm đôi. Mặt Fflewddur đỏ bừng. “Hèm,” anh nói, “phải, ý tôi là: tôi rất nóng lòng được gặp lại họ. Sự thật là, tôi thường có cảm giác họ vẫn tự xoay xở khá ổn thỏa ngay cả khi tôi không có mặt ở đó. Nhưng, dù sao thì một người họ Fflam vẫn luôn sốt sắng với bổn phận của mình!”
Nhóm bạn dừng lại trong khi Fflewddur tuột từ trên lưng Llyan xuống và ngồi xổm trên bãi cỏ để sửa lại sợi dây đàn bị đứt. Chàng ca sĩ lôi từ trong túi ra một chiếc chìa khóa lớn anh vẫn dùng để vặn chặt lại những núm gỗ của cây đàn hạc, và bắt đầu lên dây một cách nhẫn nại.
Một tiếng kêu khàn khàn khiến Taran vội ngước mắt nhìn. “Quạc đấy!” Cậu kêu lên, chỉ lên bóng con chim đang lao vun vút về phía nhóm bạn. Gurgi hớn hở reo lên và vỗ tay trong khi chú quạ đậu xuống cổ tay Taran.
“Vậy là mày đã tìm thấy bọn tao, anh bạn,” Taran nói, vui sướng vì lại có chú quạ bên mình. “Kể cho tao nghe nào,” cậu vội nói tiếp, “Eilonwy sao rồi? Cô ấy có nhớ... - tất cả bọn tao không?”
“Công Chúa!” Quạc kêu, đập cánh liên hồi. “Công Chúa! Eilonwy! Taran!” Nó đập mỏ lách cách, nhảy lên nhảy xuống trên cổ tay Taran, và ba hoa liến thoắng đến nỗi Taran gần như không thể phân biệt nổi các từ. Cậu chỉ hiểu được rằng cơn phẫn nộ của Eilonwy vì bị bắt phải học cách cư xử của hoàng gia vẫn không giảm bớt chút nào, và quả thực là cô có nhớ cậu - những tin tức khiến Taran vừa phấn khởi vừa khiến cậu mong được gặp lại nàng Công Chúa tóc vàng hơn bao giờ hết.
Quạc cũng nói thêm, ở cái hang trên đảo Mona, tên khổng lồ Glew đã trở lại hình thù cũ nhờ có món thần dược của cụ Dallben.
Quạc tỏ ra rất phấn khích. Miệng vẫn không ngừng huyên thuyên, nó đập đôi cánh đen bóng, nhảy từ cổ tay Taran xu ng để chào những người bạn khác, và thậm chí còn đậu cả lên đầu Llyan, ở đó nó háo hức quẹt mỏ qua lớp lông màu hung hung của con mèo khổng lồ.
“Cặp mắt của nó sẽ giúp ích cho cuộc tìm kiếm của chúng ta đấy,” Taran nói với Fflewddur, anh đã bỏ cây đàn hạc của mình sang một bên để vuốt ve bộ lông óng mượt của chú chim. “Quạc có thể trinh thám mặt đất tốt hơn bất kỳ ai trong số chúng ta.”
“Đúng là nó có thể,” Fflewddur đồng tình, “nếu nó muốn và nếu cậu bắt được nó nghe lời cậu. Nếu không thì con chim xỏ lá ấy sẽ chõ mỏ vào việc của tất cả mọi người trừ bản thân nó.”
“Đúng, đúng thế!” Gurgi xen vào, dứ dứ một ngón tay chỉ về phía chú quạ. “Hãy nghe theo lệnh của cậu chủ nhân từ! Hãy bay đi dò đường giúp cậu ấy, đừng tò mò, tọc mạch và huyên thuyên láo toét!”
Để đáp lại, chú quạ xấc xược thè ra chiếc lưỡi đen nhọn hoắt. Ngoắt đuôi một cái, nó bay đến bên cây đàn hạc và bắt đầu quệt mỏ qua các sợi dây đàn. Nghe thấy tiếng kêu hốt hoảng của chàng ca sĩ, Quạc liền nhảy từ trên khung đàn uốn lượn xuống và chộp lấy chiếc chìa khóa dùng để lên dây, kéo lê nó ngang qua bãi cỏ.
“Nó trơ tráo như một con ác là vậy!” Fflewddur kêu lên, đuổi theo sau chú quạ. “Nó hay ăn trộm như một con quạ khoang!”
Khi Fflewddur còn cách nó khoảng nửa bước chân thì Quạc lại nhanh nhẹn nhảy lên, chiếc chìa khóa ngậm chặt trong mỏ. Nó vừa kêu quàng quạc vẻ khoái chí vừa nhảy tránh khỏi tầm tay của Fflewddur, và Taran không thể nhịn cười nổi khi nhìn cảnh chàng ca sĩ cẳng dài chạy lòng vòng một cách vô ích, trong khi Quạc nhảy nhót phía trước anh ta. Khi Gurgi và Taran cũng tham gia vào cuộc đuổi bắt và ngón tay của Taran chỉ còn cách túm lông đuôi của chú quạ một sợi tóc, Quạc bỗng vụt lên và đập cánh bay một quãng ngắn về phía khu rừng vẻ trêu chọc. Ở đó, nó đậu xuống nhánh cây xù xì của một gốc sồi cổ thụ cao vút và đưa cặp mắt tròn sáng nhìn nhóm bạn đang đứng vòng quanh gốc cây.
“Bay xuống đây,” Taran ra lệnh, cố lên giọng thật nghiêm khắc, bởi vì trò đùa của chú quạ tức cười đến nỗi cậu không thể tỏ ra giận dữ thực tình được. “Tôi đã cố dạy nó biết nghe lời,” Taran thở dài, “nhưng vô ích. Nó sẽ chỉ đem chiếc chìa khóa lại khi nào nó thích thôi, không sớm hơn đâu.”
“Này, này! Thả nó xuống đi!” Fflewddur gọi, huơ huơ hai cánh tay. “Thả nó xuống đây ngay!”
Nghe vậy Quạc nghiêng đầu, so vai lại và thả chiếc chìa khóa xuống thật - nhưng không phải là vào hai bàn tay đang chìa ra của chàng ca sĩ mà là vào một hốc rỗng trong thân cây.
“Thả rồi đấy! Thả rồi đấy!” Quạc kêu, đu đưa qua lại trên cành cây, liến thoắng kêu lên quàng quạc vẻ khoái chí với trò đùa của mình.
Fflewddur phì một tiếng bực bội. “Con chim ấy láo toét như một con sáo đá vậy! Nó đã được giải trí rồi, giờ tôi lại phải còng lưng làm việc đây.” Vừa lẩm bẩm những lời càu nhàu về tính lấc cấc của chú quạ tinh nghịch, chàng ca sĩ vòng tay ôm lấy thân cây và cố đu mình lên. Chưa lên được nửa đường, anh ta đã tuột tay và ngã lộn nhào xuống giữa đám rễ cây “uỵch” một cái.
“Người họ Fflam hết sức khéo léo!” Fflewddur thở hổn hển nói, rầu rĩ xoa bóp cái lưng của mình. “Nhân danh Belin Vĩ Đại, không có cái cây nào mà tôi không trèo được - ờ, có lẽ là ngoại trừ cây này.” Anh lau trán và bực tức liếc nhìn thân cây cao vút.
“Gurgi sẽ trèo, vâng, vâng!” Gurgi kêu lên, nhảy tới bên cây sồi. Hai cánh tay và đôi chân lông lá cùng phối hợp với nhau, chỉ trong nháy mắt, con vật đã trèo lên được. Trong khi Fflewddur hô lên những lời cổ vũ, thì Gurgi sục bàn tay gầy gò của mình vào cái hốc.
“Chiếc chìa khóa lên dây đàn đây rồi, ồ, đúng thế!” Nó gọi với xuống. “Gurgi tinh khôn đã tìm được nó!” Nó bỗng im bặt. Taran thấy khuôn mặt con vật nhăn lại vì ngạc nhiên và bối rối. Sau khi tung chiếc chìa khóa xuống cho Fflewddur, Gurgi quay lại với cái hốc ở thân cây. “Nhưng cái gì đây nhỉ? Gurgi còn mò thấy được cái gì thế này? Cậu chủ nhân từ ơi,” nó kêu to, “ở đây còn có một vật kỳ lạ gì đó được giấu kỹ lắm!”
Taran nhìn con vật cặp một món đồ gì đó vào dưới cánh tay và tuột xuống khỏi cây sồi.
“Hãy nhìn xem này!” Gurgi reo lên trong khi Taran và chàng ca sĩ vây quanh nó.
Trò đùa của Quạc đã bị lãng quên trong chốc lát và chú quạ, hoàn toàn không có vẻ xấu hổ chút nào, bay đến đậu lên vai Taran, vươn cổ ra và chen tới như thể muốn được là kẻ đầu tiên nhìn thấy phát hiện của Gurgi vậy.
“Đó có phải là một báu vật không?” Gurgi kêu lên. “Ôi, một báu vật hết sức quý giá! Và chính Gurgi đã tìm thấy nó!” Nó giậm chân một cách phấn khích. “Hãy mở ra đi, cậu chủ nhân từ! Mở ra xem nó chứa đựng những châu báu gì!”
Vật mà Gurgi dúi vào tay Taran là một cái hộp nhỏ dẹt bằng sắt không rộng hơn lòng bàn tay Taran. Cái nắp uốn cong của nó được gắn bản lề nặng trĩu, buộc bằng những dải thép, lại thêm một cái khóa móc to tướng.
“Có phải là đá quý lấp lánh không? Hay vàng bạc lung linh chói lọi?” Gurgi hỏi, trong khi Taran lật qua lật lại chiếc hộp trong tay; Fflewddur cũng ngắm nghía nó một cách tò mò.
“Thế đấy, các bạn,” chàng ca sĩ nhận xét, “ít ra chúng ta cũng có được phần thưởng gì đó để bù lại những rắc rối mà con quạ trộm vặt kia đã gây ra cho chúng ta. Nhưng dựa theo kích cỡ của nó thì tôi sợ là sẽ chẳng được mấy đâu.”
Trong lúc đó thì Taran vẫn đánh vật với chiếc khóa, nó không chịu bật ra. Cái nắp cứ trơ ra trước những cú đập của cậu, và cuối cùng cậu phải đặt chiếc hộp xuống đất cho Gurgi giữ chặt lấy trong khi chàng ca sĩ và Taran dùng mũi gươm nạy các bản lề. Nhưng chiếc hộp bền chắc lạ thường, và họ phải gắng vận hết sức thì cái nắp hộp mới chịu bật ra với một tiếng gãy lớn. Ở trong hộp là một gói nhỏ bọc da mềm mà Taran mở ra một cách thật thận trọng.
“Cái gì thế? Cái gì thế?” Gurgi la lên, nhảy lò cò tới lui. “Cho Gurgi xem món châu báu lấp lánh với nào!”
Taran bật cười và lắc đầu. Trong cái gói không có vàng bạc hay đá quý gì hết, mà chỉ là một khúc xương mảnh dài bằng ngón tay út của Taran, không hơn không kém. Gurgi rên lên một tiếng thất vọng.
Fflewddur phì cười. “Tôi đoán là anh bạn lông lá của chúng ta đã tìm thấy một cái cặp tóc rất nhỏ hoặc là một cái tăm rất to. Nhưng dù là cái gì đi chăng nữa thì nó cũng chẳng có ích gì cho chúng ta cả.”
Taran vẫn không ngừng xem xét kỹ vật lạ lùng ấy. Khúc xương khô và giòn, được tẩy trắng tinh và nhẵn bóng. Nó là xương người hay xương động vật thì cậu không thể đoán được. “Vật này thì có thể có giá trị gì nhỉ?” Cậu lẩm bẩm, vầng trán cau lại.
“Có giá trị lắm,” Fflewddur đáp, “nếu ta đang cần một cái tăm xỉa răng. Ngoài cái đó ra thì,” anh ta nhún vai, “cậu có thể giữ nó, nếu thích, hay quẳng nó đi cũng được; tôi không nghĩ sẽ làm thay đổi điều gì đâu. Ngay cả cái hộp cũng không còn sửa sang gì được nữa rồi.”
“Nhưng nếu không có giá trị gì,” Taran nói, vẫn chăm chú xem xét khúc xương, “thì tại sao nó lại được khóa chặt trong cái hộp như vậy? Và tại sao lại được giấu kỹ đến thế?”
“Từ lâu, tôi đã rút được kinh nghiệm là người ta có thể tỏ ra rất kỳ cục với các đồ vật của mình,” Fflewddur nói. “Một cái tăm xỉa răng ưa thích, một món đồ gia truyền - nhưng phải, tôi hiểu cậu định nói gì rồi. Một người họ Fflam thì luôn nhanh trí! Bất kỳ kẻ nào đã giấu nó ở đây chắc chắn không muốn ai khác tìm thấy nó. Tôi cũng đang định nhận xét là có lẽ nó che giấu nhiều điều hơn ta tưởng phía dưới vẻ bề ngoài tầm thường này.”
“Thế nhưng,” Taran lên tiếng, “một thân cây rỗng thì có lẽ không phải là nơi cất giấu an toàn nhất.”
“Ngược lại là đằng khác,” chàng ca sĩ đáp. “Có cách nào khác để giấu một vật chứ? Giấu ở trong nhà thì nó có thể bị tìm thấy mà không mất bao nhiêu công sức. Chôn nó dưới đất thì lại sợ gặp phải chuột chũi, lửng và các thứ tương tự. Nhưng một thân cây như thế này,” anh nói tiếp, liếc nhìn lên trên, “tôi không nghĩ có ai khác ngoài Gurgi lại có thể trèo lên mà không có thang, và chẳng ai đi vào rừng mà lại mang theo thang cả. Nếu có con chim hay con sóc nào làm tổ trên ngọn thì chúng chỉ càng che lấp cái hốc thêm mà thôi. Không, bất kỳ ai giấu vật này ở đó đã suy nghĩ rất kỹ càng và cẩn thận như thể...”
Mặt Fflewddur bỗng tái đi. “Như thể...” Anh ta khó khăn nuốt khan và nghẹn lời. “Hãy vứt ngay nó đi,” anh thì thào vẻ khẩn thiết. “Hãy quên là chúng ta đã tìm thấy nó. Tôi có thể đánh hơi thấy bùa phép ở cách xa hàng dặm ấy. Cho dù nó là tăm, cặp tóc hay cái gì đi chăng nữa thì nó cũng có vẻ gì đó rất kỳ quái.” Anh ta rùng mình. “Tôi đã nói đi nói lại rồi đấy: đừng có dây vào việc không phải của mình. Các vị đã biết rõ ý kiến của tôi về việc ấy rồi. Có hai điều không bao giờ hòa hợp được với nhau: một là bùa phép, điều kia là dây dưa với nó.”
Taran không trả lời ngay mà nhìn kỹ khúc xương nhỏ bóng nhẵn một lúc. Cuối cùng cậu nói, “Cho dù nó là cái gì đi chăng nữa thì cũng không phải của chúng ta. Thế nhưng nếu quả là nó có bùa phép, không biết tốt hay xấu, thì chúng ta có nên bỏ nó lại không?”
“Hãy ném nó đi!” Fflewddur kêu lên. “Nếu là bùa phép tốt thì chẳng có hại gì hết. Còn nếu là bùa phép xấu thì ai mà biết được những chuyện kinh khủng gì sẽ xảy ra. Xin hãy trả nó lại chỗ cũ đi thôi.”
Taran miễn cưỡng gật đầu. Cậu gói khúc xương lại, đặt nó vào trong chiếc hộp, đậy cái nắp bị hỏng lên trên một cách lỏng lẻo, và nhờ Gurgi bỏ nó lại vào hốc cây rỗng. Gurgi, từ nãy đến giờ vẫn chăm chú lắng nghe những lời Fflewddur nói về bùa phép, không muốn đụng vào chiếc hộp; và chỉ sau khi nhóm bạn cãi cọ rồi van vỉ một hồi lâu nó mới chịu làm. Con vật vội trèo lên cây sồi và tuột xuống còn nhanh hơn cả lúc trèo lên.
“Thế là tống khứ được nó,” Fflewddur lẩm bẩm, rảo bước ra khỏi khu rừng thật nhanh, với Taran và Gurgi theo sau, Gurgi cứ sợ sệt ngoái nhìn lại phía sau cho đến khi cây sồi đã hoàn toàn biến khỏi tầm mắt.
Nhóm bạn trở lại với mấy con ngựa và sửa soạn để lên đường. Fflewddur nhặt cây đàn hạc của mình lên, nhìn quanh, và gọi lớn, “Này, Llyan đâu rồi? Đừng có bảo tôi là nó đã chạy mất đấy.”
Nỗi lo ngại của Taran nhanh chóng biến mất, bởi chỉ một thoáng sau cậu đã thấy con mèo khổng lồ phóng từ một bụi cây ra và nhảy cẫng đến bên Fflewddur, anh ta vỗ tay và thì thầm những lời nựng nịu qua hai hàm răng.
“Mày đây rồi, cô bạn yêu quý,” chàng ca sĩ reo lên, vui vẻ mỉm cười trong khi Llyan nô giỡn quanh mình anh. “Nào, mày đã đuổi theo cái gì vậy?”
“Tôi nghĩ là nó đã bắt được một... ồ, đúng thế... nó đã bắt được một con ếch!” Taran kêu lên, nhìn thấy một cặp chân có màng giữa các ngón đang lủng lẳng trên miệng Llyan.
“Đúng, đúng thế!” Gurgi xen vào. “Một chú ếch nhỏ! Một chú ếch nhỏ nhảy tưng tưng!”
“Tôi không nghĩ thế đâu,” chàng ca sĩ tiếp. “Chúng ta có nhìn thấy ao đầm gì đâu, thậm chí còn chẳng thấy một vũng nước nào nữa kia.”
Gừ gừ vẻ tự hào, Llyan thả vật ngậm trong miệng xuống chân Fflewddur. Đó quả là một con ếch thật, con ếch lớn nhất mà Taran từng thấy. Chàng ca sĩ, sau khi vỗ đầu Llyan và âu yếm xoa tai nó, liền quỳ xuống và với vẻ ghê ghê, nhặt con vật bất động lên.
“Ờ, ờ, tao thích lắm, cô bạn thân mến ạ,” anh ta nói, cầm con vật bằng ngón cái và ngón trỏ, giơ ra cách mình một cánh tay. “Tuyệt lắm, tao không biết phải cảm ơn mày thế nào đâu. Nó vẫn thường làm như thế,” anh giải thích cho Taran. “Ý tôi không phải lúc nào cũng là ếch, nhưng những thứ lặt vặt - thỉnh thoảng có một hai con chuột hay đại loại như thế. Những món quà nhỏ mà nó t ởng là tôi thích. Dấu hiệu chứng tỏ nó rất yêu mến tôi đấy. Tôi luôn khen ngợi chúng hết lời. Dù sao thì ý tốt mới là điều quan trọng.”
Taran tò mò cầm lấy con ếch từ tay chàng ca sĩ. Cậu nhận thấy Llyan đã ngậm con vật rất nhẹ nhàng và không hề làm nó bị thương. Con ếch chỉ bị mất nước mà thôi. Da nó lốm đốm xanh vàng, nứt nẻ nom thật khốn khổ. Chân nó xòe ra yếu ớt; những ngón chân có màng của nó đã bắt đầu cong lên và quắt lại như những chiếc lá khô; và cặp mắt lồi to tướng của nó nhắm nghiền lại. Buồn rầu, Taran đang định đặt con vật trở lại bụi cây thì bỗng cảm nhận thấy một nhịp tim đập yếu ớt trong lòng bàn tay mình.
“Fflewddur, con vật khốn khổ vẫn còn sống,” Taran nói. “Có lẽ chúng ta còn kịp cứu nó.”
Chàng ca sĩ lắc đầu. “Tôi không nghĩ thế đâu. Nó yếu quá rồi. Kể cũng tiếc thật, vì nom nó có vẻ là một chàng ếch khá bảnh đấy.”
“Hãy cho chú ếch tội nghiệp uống nước đi,” Gurgi gợi ý. “Hãy đem nước để đến để tưới tắm cho nó.”
Trong tay Taran chú ếch khó nhọc cố gắng một lần cuối để cựa mình. Một con mắt hé mở, cái miệng rộng há ra, và họng nó rung lên như một nhịp tim yếu ớt. “Arrad!” Con ếch kêu lên.
“Này, đúng là nó vẫn còn sức sống!” Fflewddur kêu lên. “Nhưng hẳn nó yếu lắm. Tôi chưa bao giờ nghe thấy một con ếch kêu như thế.”
“Urgghi!” con ếch lại kêu. “Ood!”
Con vật cố sức kêu tiếp, nhưng tiếng kêu khàn khàn của nó chuyển thành một tiếng thở khò khè gần như không nghe thấy nổi.
“Ứu! Ứu!”
“Nó kỳ lạ thật,” Fflewddur nhận xét, trong khi Tarran, ngạc nhiên hơn bao giờ hết, đưa con ếch lên sát tai mình. Con vật đã bắt hai mắt mình phải mở ra và nhìn Taran với vẻ van xin hết sức đáng thương.
“Tôi đã nghe chúng kêu ‘ộp ộp’,” Fflewddur nói tiếp, “và thỉnh thoảng thì là ‘oạp’. Nhưng còn anh chàng này thì... nếu ếch mà biết nói thì tôi dám thề là nó đang kêu ‘cứu’!”
Taran ra hiệu cho chàng ca sĩ im lặng. Từ sâu trong họng con ếch phát ra một âm thanh khác, không lớn hơn một tiếng thì thầm nhưng rõ ràng và không thể nhầm lẫn được. Miệng Taran há hốc. Mắt mở lớn vì kinh ngạc, cậu quay sang Fflewddur. Gần như không nói nên lời, cậu giơ con ếch ra trên hai bàn tay và hổn hển, “Doli đấy!”
Hết chương 6. Mời các bạn đón đọc chương 7!