Biên Niên Sử Xứ Prydain Chương 8

Chương 8
Bức tường gai

Nghe vậy, Doli vung chân đá một cú yếu ớt và khàn khàn kêu lên một tiếng phản đối không ai hiểu nổi, nhưng ông không thể làm gì khác ngoài đồng ý với kế hoạch của Taran. Quạc đậu trên vai, Taran bắt đầu đi bộ xuyên rừng. Lóc cóc chạy sau cậu là Gurgi, nó nằng nặc đòi đi theo cậu.

Sau một hồi lâu Taran bước chậm hơn và cuối cùng đứng hẳn lại để nhìn quanh khu rừng giờ kín đặc cây mâm xôi. Những bụi gai vươn lên giữa các thân cây tạo thành một bức mành nhằng nhịt không thể vượt qua. Taran nhận ra rằng cậu đã thấy được thứ cậu tìm kiếm. Những bụi cây cao này không mọc bừa bãi, mà được đan cài một cách quỷ quyệt thành bức rào chắn rậm rịt, một bức tường sống cao gần gấp đôi cậu, đầy gai sắc nhọn hơn cả móng vuốt của một con quái điểu. Taran rút gươm ra và tìm cách chọc thủng bụi rậm để chui qua.

Những cây gai cứng như sắt làm lưỡi gươm của Taran cùn cả đi và chính cậu cũng kiệt sức vì cố chọc thủng chúng. Kết quả mọi công sức khó nhọc của cậu chỉ là một cái lỗ bé xíu cho cậu ghé mắt nhìn vào; cậu không thấy cái gì hơn ngoài một đống đá đen sì và một khoảng đất tối om bao quanh bởi cỏ dại và cây ngưu bàng. Cậu nhận thấy nơi mới thoạt trông tưởng như hang của một con thú hoang, thực ra là túp lều dị dạng được dựng lên chẳng theo quy cách nào, với những bức tường thấp to bè lợp cỏ tranh. Không thấy có động tĩnh gì, không có dấu hiệu của sự sống, và cậu tự hỏi không biết, liệu có phải lão phù thủy đã rời bỏ hang ổ của mình và nhóm bạn đến quá chậm rồi không. Ý nghĩ ấy chỉ khiến cậu càng thêm lo sợ.

“Bằng cách nào đó Doli đã chui vào được,” Taran lẩm bẩm, khẽ lắc đầu. “Nhưng ông ấy tài tình hơn ta nhiều; hẳn ông ấy đã tìm ra một lối đi dễ dàng hơn. Nếu chúng ta thử trèo qua,” cậu nói thêm, “thì lại dễ bị phát hiện.”

“Hoặc sẽ bị mắc vào những cành gai nhọn hoắt và châm chích!” Gurgi đáp lại. “Ôi, Gurgi can đảm không thích trèo qua những bức tường mà nó không biết có gì đang rình rập phía bên kia đâu.”

Taran nhấc chú quạ khỏi vai mình. “Chắc chắn Morda phải có một lối đi riêng: một lỗ hổng giữa đám gai hoặc một đường hầm nào đó. Hãy tìm ra nó cho bọn ta,” cậu khẩn nài nói với Quạc. “Hãy tìm ra nó cho bọn ta nhé, anh bạn.”

“Và phải nhanh lên mới được,” Gurgi xen vào. “Không được đùa giỡn nhởn nhơ đâu đấy!”

Lặng lẽ như một con cú, chú quạ bay vụt lên, vòng quanh bức rào chắn, rồi biến mất khỏi tầm mắt. Taran và Gurgi lom khom ngồi đợi dưới bóng cây. Một lúc sau, khi mặt trời đã lặn xuống phía sau những tán lá và bóng tối nhá nhem đã kéo đến mà vẫn không thấy Quạc đâu, Taran bắt đầu thấy lo cho chú chim. Mặc dù quả thật là một tay tinh nghịch, nhưng Quạc hiểu rõ nhiệm vụ của mình quan trọng đến mức nào, và Taran biết, rằng chú quạ chậm quay lại không phải là vì ý thích nhất thời của nó.

Cuối cùng Taran không thể đợi thêm được nữa. Cậu bước đến bên bờ rào và bắt đầu thận trọng trèo lên. Những cành cây uốn éo như mãng xà cào vào tay, vào mặt cậu một cách dữ dội. Cậu đặt chân vào chỗ nào thì đám gai cũng chĩa về phía cậu như thể có chủ ý vậy. Ngay phía dưới, cậu nghe thấy Gurgi thở hổn hển, khi những mũi gai nhọn xuyên qua bộ lông rối bù của con vật. Taran dừng lại để lấy lại hơi trong khi Gurgi trèo bên cạnh cậu. Họ đã gần tới đỉnh hàng rào.

Cùng với tiếng xào xạc, vun vút bỗng vang lên giữa đám gai, một cái thòng lọng thít lấy cánh tay đang giơ lên của Taran. Cậu hét lên một tiếng hoảng hốt và đúng lúc đó thoáng thấy gương mặt kinh hoàng của Gurgi khi những vòng dây bện chặt quấn lấy thân mình con vật. Một cành cây uốn cong bật thẳng lên, kéo theo nó những vòng dây. Taran thấy mình bị lôi tuột khỏi bụi gai và lủng lẳng ở đầu một sợi dây chắc khỏe, bị ném lên cao và rơi qua hàng rào. Giờ thì cậu mới hiểu những lời mà Doli đã cố lào phào thốt ra: những cái bẫy sập và lưới. Cậu ngã xuống, và bóng tối đen ngòm nuốt chửng lấy cậu.

 

Một bàn tay xương xẩu chộp lấy cổ họng cậu. Bên tai cậu vang lên giọng nói khàn khàn như tiếng một mũi dao găm cào qua một tảng đá. “Mi là ai?” Giọng nói ấy hỏi đi hỏi lại. “Mi là ai?”

Taran cố vùng vẫy thoát ra, rồi nhận thấy hai tay cậu đã bị trói quặt ra sau lưng. Gurgi khẽ rên lên một tiếng khổ sở. Đầu óc Taran quay cuồng. Tia sáng bập bùng của một cây nến xuyên vào mắt cậu. Khi đã nhìn được rõ hơn, cậu thấy một khuôn mặ t hốc hác dữ tợn màu đất sét khô, hai con mắt lóe lên như hai viên pha lê lạnh lẽo nằm dưới vầng trán dô ra, tựa như dưới một đáy giếng sâu thẳm. Mái đầu trọc lốc không có một sợi tóc, còn cái miệng thì chỉ là một vết sẹo nhăn nhúm tím bầm.

“Làm sao mi lại đến được đây?” Morda thét hỏi. “Mi muốn gì ở ta?”

Trong bóng tối lờ mờ, Taran không thấy gì ngoài một căn buồng trần thấp và một lò sưởi không có lửa, đầy tro tàn. Cậu đang bị đặt tựa vào một góc tường. Gurgi nằm sóng soài trên sàn nhà lát đá bên cạnh cậu. Cậu thoáng thấy Quạc bị nhốt trong một cái giỏ đan bằng cành liễu đặt trên chiếc bàn gỗ sồi nặng nề, và cậu vội cất tiếng gọi chú chim.

“Sao,” tên phù thủy quát, “hóa ra con quạ này là của mi à? Nó đã tìm thấy một trong số các bẫy lưới của ta, cũng như mi vậy. Không kẻ nào có thể bước vào đây mà ta không hay biết. Điều này thì mi đã thấy rồi. Giờ thì đến lượt ta được biết thêm về mi.”

“Phải, con chim là của tôi,” Taran đáp lại bằng giọng mạnh bạo, nghĩ rằng hi vọng duy nhất của cậu phụ thuộc vào việc thú nhận tất cả những sự thật mà cậu có thể thú nhận. “Nó đã bay qua bụi rậm và không quay lại với chúng tôi. Chúng tôi e là đã xảy ra việc gì không may và quyết định đi tìm nó. Chúng tôi đang trên đường đi tới Dãy Núi Llawgadarn. Ông không có lý do gì để cản trở chúng tôi cả.”

“Chính bọn mi đã tự cản trở bản thân mình rồi đấy,” Morda đáp, “những kẻ ngu ngốc có trí khôn không bằng một con ruồi. Mi nói là bọn mi đang đi đến Dãy Llawgadarn à? Có thể là như vậy. Cũng có thể là không phải. Loài người có nhiều lòng tham và đố kỵ lắm; nhưng tính thật thà thì chẳng có là bao. Khuôn mặt của mi đã nói hộ mi rồi và nó cho ta thấy mi là một thằng dối trá. Mi hòng che giấu điều gì chứ? Không thành vấn đề. Những tháng ngày nhỏ mọn của mi mà bọn mi gọi là cuộc sống ấy sắp cạn rồi. Mi sẽ không rời khỏi đây được. Thế nhưng - giờ mi đã ở trong tay ta rồi, có lẽ mi có thể phục vụ ta được đấy. Ta phải cân nhắc chuyện đó mới được. Cuộc sống của bọn mi có lẽ vẫn còn chút lợi ích nào đó - cho ta, nếu không phải là cho chính bọn mi.”

Taran tràn ngập nỗi kinh hoàng, không chỉ vì những lời của lão phù thủy. Trong khi cậu nhìn lão chằm chằm, không thể rời mắt sang nơi khác, Taran thấy rằng Morda không chớp mắt bao giờ. Ngay cả dưới ánh nến, hai mi mắt nhăn nhúm của lão cũng không nhắm lại; cái nhìn lạnh lẽo của Morda không bao giờ nao núng.

Lão phù thủy đứng thẳng lên và kéo chiếc áo choàng xơ xác bẩn thỉu sát lại thân hình gày còm của mình hơn. Taran há hốc miệng, bởi trên cái cổ khô quắt của Morda lủng lẳng một sợi dây chuyền và một vầng trăng lưỡi liềm bằng bạc. Chỉ một người duy nhất cậu biết có món đồ trang sức giống như vậy: Công Chúa Eilonwy Con Gái của Angharad. Không giống như vầng trăng lưỡi liềm của Eilonwy, vầng trăng này được nạm một viên đá quý kỳ lạ, trong trẻo như nước nguồn, các mặt cắt của nó lấp lánh như thể được chiếu sáng bởi một ngọn lửa bên trong vậy.

“Huy hiệu của Dòng họ Llyr!” Taran kêu lên.

Morda giật mình và lùi lại. Bằng những ngón tay khẳng khiu như chân nhện, lão túm chặt lấy viên ngọc. “Đồ ngu,” lão rít lên, “mi định cướp vật này của ta ư? Có phải đó là lý do mi được phái tới đây không? Đúng, đúng thế,” lão lẩm bẩm, “chắn chắc là vậy rồi.” Cặp môi tái mét của lão khẽ giật giật trong khi lão nhìn Taran chằm chằm bằng đôi mắt không có mí. “Đã quá muộn rồi. Công Chúa Angharad đã chết từ lâu, và mọi bí mật của nó thuộc về ta.”

Taran trố mắt nhìn lão, kinh ngạc khi nghe thấy cái tên ấy. “Angharad Con Gái của Regat ư?” cậu thì thào. “Eilonwy không bao giờ được biết chuyện gì đã xảy ra với mẹ mình. Nhưng chính là mi - chính trong tay mi,” cậu quát lên, “chính trong tay mi Công Chúa đã bỏ mạng!”

Morda không nói gì một hồi lâu, nom tựa như một người bị dày vò bởi cơn ác mộng đen tối. Khi lão lên tiếng, giọng lão chất đầy sự căm ghét. “Mi nghĩ rằng ta quan tâm tới mạng sống hay cái chết của các sinh vật hèn yếu như bọn mi sao? Ta đã thấy loài người đủ lắm rồi và đã xét đoán đúng bản chất thật của chúng: man rợ hơn cả thú hoang, mù quáng và ngu ngốc, hay cãi vã, chỉ biết đến những mối lo nhỏ nhặt của mình. Chúng bị lòng kiêu hãnh và những cố gắng vô ích nuốt chửng; chúng dối trá, lừa lọc và phản bội lẫn nhau. Phải, đúng là ta đã sinh ra giữa giống người. Một con người!” Lão thốt ra tiếng ấy khinh bỉ như nhổ bọt. “Nhưng từ lâu, ta đã biết rằng số mệnh của ta không phải là trở thành một kẻ giống như chúng, và từ lâu, ta đã sống cách xa những chuyện cãi vã và ghen tuông của chúng, những mất mát nhỏ mọn và những lợi lộc nhỏ mọn của chúng.”

Từ trong đáy sâu của hốc mắt teo tóp, cặp mắt lão phù thủy lóe lên. “Bởi vì ta không muốn hạ mình sống chung với chúng, ta cũng không chia sẻ cái chết với chúng. Ta đã một mình học hỏi mọi bí quyết của pháp thuật. Nhờ những tri thức cổ xưa ta biết được, rằng người Mỹ Tộc có những loại ngọc cất giấu trong kho báu bí mật của chúng; ai có được chỉ một viên ngọc ấy thôi cũng có thể sống lâu hơn cuộc đời phù du của loài người nhiều. Chưa ai tìm được những kho báu này, và cũng không có mấy kẻ dám đi tìm kiếm chúng. Thế nhưng ta biết chắc, rằng ta sẽ học được cách tìm ra chúng.

“Còn về con bé tự gọi mình là Angharad của Dòng họ Llyr ấy,” lão phù thủy nói tiếp, “một đêm đông, nó đã đến nơi ở của ta van xin được trú lại, nói rằng đứa con gái sơ sinh của nó đã bị đánh cắp, rằng nó đã phải làm một cuộc hành trình dài để tìm lại đứa bé.” Miệng lão phù thủy méo đi. “Cứ làm như số phận của nó hay số phận của một con bé sơ sinh thì liên quan đến ta vậy. Để có được thức ăn và chỗ trú ẩn, nó trao cho ta sợi dây chuyền nó đeo ở cổ. Ta không cần đổi chác gì hết; sợi dây chuyền đã thuộc về ta rồi, bởi cô ả đã yếu lả đi vì lên cơn sốt, không thể giành nó lại khỏi tay ta nếu ta muốn cướp lấy nó. Cô ả đã không sống sót qua đêm ấy.”

Taran ghê tởm quay mặt đi. “Mi đã giết bà ấy, chẳng khác nào xuyên một lưỡi dao găm qua tim bà ấy.”

Tiếng cười chói tai, chua chát của Morda nghe như tiếng cành khô bị bẻ gãy. “Ta đâu có bắt cô ả đến đây. Mạng sống của nó đối với ta cũng chẳng có giá trị gì hơn so với một cuốn sách trắng tinh mà ta đã tìm thấy giữa đồ đạc của nó. Nhưng rồi cuốn sách cũng không phải là không có chút giá trị nhỏ, theo cách riêng của mình. Ít lâu sau, một kẻ yếu ớt rên rỉ đã tìm đường đến chỗ ta. Tên hắn là Glew, và hắn cũng muốn trở thành một pháp sư. Thật đúng là một tên ngốc nhỏ con! Hắn cầu xin ta bán cho hắn một phép màu, một món bùa hộ mạng, hay một lời thần chú bí truyền. Cái tên mới phất lên, suốt ngày rền rĩ, than vãn ấy! Ta rất vui lòng dạy cho hắn một bài học. Ta bán cho hắn cuốn sách trắng và bảo hắn không được mở nó ra hay nhìn nó cho đến khi hắn đã đi xa khỏi đây, nếu không thì mọi phép màu sẽ biến mất.”

“Glew ư!” Taran lẩm bẩm. “Thì ra chính mi đã đánh lừa ông ta.”

“Cũng giống như những kẻ khác thuộc giống người bọn mi,” Morda đáp, “chính thói hám lợi và tham vọng của hắn đã đánh lừa hắn, chứ không phải ta. Ta không biết chuyện gì đã xảy ra với hắn, và ta cũng không thèm quan tâm. Nhưng chắc chắn là hắn đã học được điều này: bí quyết pháp thuật không thể mua được bằng vàng bạc.”

“Cũng không thể bị đánh cắp bằng sự tàn nhẫn và xấu xa, giống như mi đã cướp của Công Chúa Angharad,” Taran vặc lại.

“Tàn nhẫn ư? Xấu xa ư?” Morda nói. “Những từ ấy chẳng khác nào món đồ chơi đối với những kẻ như mi. Với ta, chúng chẳng có nghĩa gì hết; quyền lực của ta đã nâng ta lên cao hơn chúng. Cuốn sách đã khiến cho một tên ngốc nhận ra thói dại dột của hắn. Nhưng viên ngọc, viên ngọc thì phục vụ ta, cũng như tất cả mọi thứ khác. Con bé Angharad đã cho ta biết viên ngọc có thể giảm bớt các gánh nặng và khiến những nhiệm vụ khó khăn trở nên dễ dàng hơn. Và đúng như vậy, mặc dù ta đã phải bỏ ra nhiều năm để tìm hiểu quyền phép của nó cho đến khi ta có thể tinh thông cách sử dụng nó. Theo lệnh ta, nó biến những bó củi nặng nề nhất thành một nắm cành khô. Nhờ có viên ngọc, ta đã dựng lên được bức tường gai. Khi ta có nhiều quyền năng hơn, ta tìm ra được một dòng suối bí mật.”

Cặp mắt không chớp của lão phù thủy lóe lên một cách đắc thắng. “Cuối cùng,” lão thì thào, “cuối cùng thì viên ngọc cũng đã dẫn ta đến với thứ ta vẫn tìm kiếm suốt bao lâu nay: một kho báu của người dân Mỹ Tộc.”

“Kho báu này không có một viên ngọc bất tử nào,” Morda nói tiếp. “Nhưng có quan trọng gì! Nếu chúng không có ở đây thì ta sẽ tìm thấy chúng ở nơi khác. Giờ thì mọi kho báu Mỹ Tộc, mọi hầm mỏ, mọi lối đi bí mật - tất cả đều bỏ ngỏ trước ta.

“Đúng lúc đó, một tên canh trạm Mỹ Tộc phát hiện ra ta. Ta không thể để hắn đánh động được. Mặc dù chưa từng có ai dám chống lại bọn chúng, ta đã làm vậy!” Morda gầm lớn. “Viên ngọc của ta không chỉ là một món đồ trang sức vặt giúp làm nhẹ bớt công việc của một con hầu bếp. Ta đã nắm được bí quyết của quyền lực của nó. Theo lệnh ta, tên do thám Mỹ Tộc ấy đã biến thành một con chuội chũi mù chui lủi! Đúng thế,” Morda rít lên, “ta đã có được quyền phép còn hơn cả những gì ta tìm kiếm. Giờ thì còn kẻ nào dám trái lệnh ta nữa, khi ta đã có cách biến con người thành những sinh vật yếu ớt, hèn hạ, đúng với bản chất thật của chúng! Ta chỉ đi tìm một viên ngọc thôi ư? Giờ thì cả vương quốc Mỹ Tộc nằm trong tay ta. Và toàn thể Prydain nữa! Lúc đó thì ta đã hiểu ra vận mệnh thật sự của mình. Loài người cuối cùng cũng đã tìm thấy chủ nhân của chúng.”

“Chủ nhân ư?” Taran kêu lên, kinh hoàng trước những lời của Morda. “Mi còn xấu xa hơn cả những kẻ mà mi coi khinh. Ngươi dám nói đến lòng tham và đố kỵ ư? Quyền phép ở viên ngọc của Angharad là để giúp ích chứ không phải để biến con người thành nô lệ. Chẳng sớm thì muộn cuộc sống của mi cũng sẽ phải trả giá cho sự độc ác của mi thôi.”

Ánh sáng lóe lên trong cặp mắt không có mí của Morda run rẩy như lưỡi của con mãng xà. “Mi nghĩ thế sao?” Lão khe khẽ đáp lại.

Bên ngoài gian buồng bỗng vang lên một tiếng kêu và tiếng rầm rầm giữa bức tường gai. Morda gật đầu cộc lốc. “Một con ruồi nữa lại mắc vào lưới của ta rồi.”

“Fflewddur!” Taran hổn hển, trong khi Morda bước ra khỏi gian buồng. Cậu lăn tới gần bên Gurgi và cả hai cố lôi kéo dây trói của nhau; nhưng tất cả chỉ là vô ích, vì chỉ một thoáng sau lão phù thủy đã quay lại, nửa lôi nửa kéo một thân hình mà lão trói gô lại và ném xuống sàn bên cạnh nhóm bạn. Đúng như Taran đã lo sợ đoán trước, đó chính là chàng ca sĩ không may.

“Ôi Belin Vĩ Đại, chuyện gì đã xảy ra với cậu vậy? Chuyện gì đã xảy ra với tôi vậy?” Fflewddur rên rỉ trong cơn choáng váng. “Cậu không quay lại... tôi liền đi xem sao - sợ rằng cậu đã bị mắc trong đám gai đó rồi.” Chàng ca sĩ khó nhọc lắc đầu. “Cú xóc mới ghê chứ! Cái cổ của tôi sẽ không bao giờ còn được như cũ nữa cho mà xem.”

  “Lẽ ra ông không nên đi theo chúng tôi mới phải,” Taran thì thầm. “Tôi không có cách nào để cảnh báo cho ông được. Thế còn Doli thì sao?”

“Ông ấy không sao,” Fflewddur trả lời. “Ít ra là an toàn hơn chúng ta bây giờ.”

Từ nãy đến giờ, Morda vẫn chăm chú ngắm nhìn nhóm bạn. “Vậy ra đám dân Mỹ Tộc đã cử bọn mi đến do thám ta. Bọn mi là đồng đảng với tên lùn ngu ngốc đã ngỡ rằng hắn có thể thoát khỏi ta. Phải thế thôi. Ta có nghĩ đến chuyện tha cho bọn mi không? Bọn mi sẽ phải chịu chung số phận với hắn thôi.”

“Phải, Doli, người Mỹ Tộc là bạn của chúng ta,” Taran nói lớn. “Hãy giải thoát cho ông ấy khỏi lời nguyền của mi. Ta cảnh cáo mi: Không được làm hại ai trong số chúng ta. Kế hoạch của mi sẽ thất bại thôi, Morda. Ta là Taran xứ Caer Dallben, và chúng ta được chính pháp sư Dallben bảo vệ.”

“Dallben ấy à,” Morda phun ra. “Lão già râu bạc lẩm cẩm! Giờ thì quyền lực của lão không bảo vệ cho bọn mi được nữa rồi. Ngay cả Dallben cũng sẽ phải quỳ rạp dưới chân ta và làm theo lệnh ta. Còn về bọn mi thì,” lão nói thêm, “ta sẽ không giết bọn mi đâu. Trừng phạt như thế thì nhỏ mọn quá. Bọn mi sẽ được sống - sống lâu đến chừng nào mà bọn mi có thể trong hình dáng bọn mi sắp có; sống và hiểu rõ, suốt mọi khoảnh khắc trong những tháng ngày khốn khổ của bọn mi, cái giá phải trả khi dám chống lại ta.”

Morda giật viên ngọc và sợi dây chuyền ra khỏi cổ rồi quay sang Fflewddur. “Hãy để cho sự can đảm của mi khi đi tìm bạn bè của mình biến thành sự hèn nhát. Hãy trốn chạy trước tiếng chó sủa hay tiếng chân bước của đám thợ săn. Hãy co rúm sợ hãi trước tiếng lá xào xạc và trước mỗi chiếc bóng thoáng qua.”

Viên ngọc lóe lên chói lòa. Bàn tay của Morda phóng về phía trước. Taran nghe thấy tiếng Fflewddur thét lên, nhưng tiếng kêu của chàng ca sĩ tắt lịm trong họng. Gurgi la lớn và Taran kinh hoàng thấy chàng ca sĩ không còn ở bên mình nữa. Đang quẫy đạp như điên trong tay Morda là một con thỏ lông màu nâu xám.

Với tiếng cười khắc nghiệt, Morda giơ con vật lên cao và ngắm nhìn nó vẻ khinh bỉ một lát trước khi ném nó vào một chiếc giỏ bằng cành liễu bên cạnh lồng nhốt Quạc. Lão phù thủy bước tới chỗ nhóm bạn và đứng vươn cao bên trên Gurgi, mắt con vật trợn tròn khiếp hãi và nó chỉ biết lắp bắp không ra lời.

Taran vùng vẫy cố thoát ra khỏi dây trói. Morda giơ viên ngọc lên. “Con vật này,” lão phù thủy nói, “cái con nửa người nửa ngợm này chẳng có ích gì hết. Đồ thú hoang đê tiện, hèn yếu, hãy trở nên yếu ớt hơn nữa, rồi làm mồi cho chim cú và mãng xà.”

Taran cố hết sức mình giật đứt những vòng dây đang trói chặt cậu. “Mi định tiêu diệt bọn ta, Morda!” Cậu hét lớn. “Nhưng rồi tâm địa xấu xa của mi sẽ tiêu diệt chính mi thôi!”

Ngay khi Taran thốt ra những lời ấy, viên ngọc lại sáng lóe lên. Ở chỗ Gurgi nằm ban nãy giờ là một con chuột đồng xám đang đứng thẳng trên hai chân sau, rồi nó kêu lên chin chít và chạy trốn vào một góc lều.

Morda quay cặp mắt không có mí của lão về phía Taran.

Hết chương 8. Mời các bạn đón đọc chương 9!

Nguồn: truyen8.mobi/t38277-bien-nien-su-xu-prydain-chuong-8.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận