Hai người bạn rời khỏi khu Đầm Lầy Morva, đi về phía đông nam để đến các vương quốc Thung Lũng dọc theo Sông Ystrad, bởi Taran đã quyết định sẽ dừng lại ở Caer Cadarn, pháo đài của Vua Smoit, và nhờ vị vua râu đỏ trang bị cho họ những yên cương chắc chắn hơn loại họ đã đem theo từ Caer Dallben. “Từ đó,” Taran bảo với Gurgi, “chúng ta chỉ có thể kiếm tìm theo sự dẫn dắt của từng khoảng khắc. Cái đầu yếu ớt, khốn khổ của ta tràn ngập những câu hỏi,” cậu thở dài, gượng cười một cách tiếc nuối, “nhưng than ôi, ta lại chẳng nghĩ ra được kế hoạch nào cả.”
Khu Đầm Lầy đã nằm lại sau nhiều ngày đường, hai người bạn vượt qua biên giới Cadiffor, vương quốc của Smoit, lớn nhất trong số các vương quốc Thung Lũng. Khung cảnh xung quanh đã biến đổi từ những cánh đồng hoang xám ngắt thành những thảo nguyên xanh mượt và những cánh rừng tươi đẹp với nhiều trang trại nằm giữa các khoảng trống. Mặc dù, Gurgi ngắm nhìn khoảng thung lũng nhỏ với vẻ khát khao và háo hức hít mùi khói bếp thoảng tới từ ống khói của những căn nhà tranh, Taran vẫn không rời khỏi con đường mình đã chọn. Nếu cứ giữ nhịp đi khẩn trương ấy thì chỉ ba ngày đường nữa là họ sẽ đến được Caer Cadarn. Một lát trước khi mặt trời lặn, nhìn thấy những đám mây kéo tới nặng trĩu xám xịt, Taran liền dừng lại để tìm chỗ trú giữa một khoảng rừng thông.
Cậu vừa xuống ngựa, và Gurgi mới bắt đầu tháo mấy cái túi yên ra thì một nhóm kỵ mã phóng nước kiệu tới khoảng rừng. Taran quay ngoắt lại và rút gươm ra. Gurgi, miệng thốt lên một tiếng kêu hoảng hốt, vội chạy tới bên cậu chủ của mình.
Có năm tên kỵ sĩ cả thảy, chúng cưỡi những con ngựa khỏe và đều mang theo vũ khí, khuôn mặt hung dữ với chòm râu bờm xờm của chúng bắt nắng đen sạm, dáng điệu chúng là những kẻ đã quen ngồi trên yên ngựa. Chúng không mặc quần áo có màu sắc của Dòng họ Smoit, và Taran đoán rằng những tên kỵ mã này là lính của một trong các chư hầu của Vua Smoit.
“Hãy cất gươm của ngươi đi,” tên kỵ mã đi đầu khinh bỉ nói, nhưng lại rút gươm của chính mình ra, hắn ghìm ngựa lại trước mặt hai người lữ hành và khinh khỉnh liếc nhìn họ. “Các ngươi là ai? Các ngươi phục vụ ai?”
“Chúng là bọn cướp đường đấy,” một tên khác kêu lên. “Hãy đánh gục chúng đi.”
“Nom chúng giống hai con bù nhìn giữ dưa hơn là cướp đường,” tên chỉ huy đáp. “Ta đoán chúng là hai tên tiện dân vừa chạy trốn khỏi chủ nhân của mình.”
Taran hạ gươm xuống nhưng không tra vào bao. “Tôi là Taran, Phụ-Chăn Lợn...”
“Thế lợn của ngươi đâu cả rồi?” Tên kỵ sĩ đi đầu cười hô hố và hỏi. “Và tại sao ngươi lại không chăn dắt chúng?” Hắn chĩa ngón tay cái chỉ về phía Gurgi. “Hay ngươi định nói với ta là cái con thú thiểu não này là một trong số súc vật mà ngươi phải chăm nom?”
“Nó không phải là lợn!” Gurgi phẫn nộ vặc lại. “Hoàn toàn không phải! Nó là Gurgi, can đảm và tinh khôn để phục vụ cậu chủ nhân từ!”
Những lời giận dữ của con vật chỉ khiến đám kỵ mã càng cười rống lên. Nhưng đúng lúc đó, tên kỵ mã đi đầu nhìn thấy Melynlas. “Ngươi có con ngựa vượt quá địa vị của mình đấy, tên chăn lợn kia,” hắn nói. “Sao mà ngươi lại có được nó?”
“Melynlas thuộc về ta một cách chính đáng,” Taran khảng khái đáp lại. “Một món quà do Gwydion ông hoàng của Dòng họ Don tặng cho ta.”
“Ông hoàng Gwydion ấy à?” Tên chiến binh kêu lớn. “Tặng cho ngươi ư? Ngươi ăn trộm nó thì có,” hắn cười nhạo. “Hãy cẩn thận đấy; những lời dối trá ấy sẽ khiến ngươi bị nện một trận ra trò cho mà xem.”
“Ta không nói dối và cũng không muốn sinh sự với ai cả,” Taran trả lời. “Chúng ta đang trên đường tới lâu đài của Vua Smoit một cách hòa bình.”
“Smoit không cần tên chăn lợn nào cả,” một tên lính xen vào.
“Chúng ta cũng thế,” tên kỵ mã đi đầu nói. Hắn quay sang đồng bọn của mình. “Tụi bay nghĩ sao? Chúng ta nên lấy con ngựa hay là cái đầu của hắn? Hay cả hai nhỉ?”
“Ông hoàng Goryon sẽ rất thích có một con ngựa mới và chắc hẳn sẽ tặng thưởng cho chúng ta rất nhiều vì con ngựa này,” một tên kỵ sĩ nói. “Nhưng cái đầu của một tên chăn lợn thì chẳng được ích lợi gì, ngay cả cho chính bản thân hắn.”
“Nói đúng lắm, và hãy làm như vậy đi!” Tên chiến binh kêu l n. “Hơn nữa, hắn sẽ chăn lợn tốt hơn nếu đi bộ,” hắn nói thêm, với tay về phía dây cương của con tuấn mã.
Taran lao ra, đứng chắn giữa Melynlas và tên kỵ mã. Gurgi cũng nhảy bật đến và điên tiết túm lấy chân tên lính. Những tên chiến binh khác thúc ngựa tới, và Taran thấy mình bị chìm giữa đám ngựa hỗn loạn đang lồng lên và bị đẩy ra xa khỏi con tuấn mã của mình. Cậu cố tìm cách vung gươm lên. Một tên kỵ mã quay ngoắt lại và bộ ức con ngựa đập mạnh vào Taran, làm cậu loạng choạng ngã xuống. Cùng lúc đó, một kẻ tấn công khác nện cho cậu một đòn, cú đánh đã có thể khiến cậu mất đầu nếu như tên lính không chém xuống bằng sống gươm. Vì hắn không làm vậy nên Taran chỉ ngã nhào ra đất, hai tai kêu ong ong, đầu óc quay cuồng, và những tên kỵ sĩ như hóa thành sao chổi bay vèo vèo trước mắt cậu. Cậu lờ mờ nghe tiếng Gurgi hoảng hốt la lên, tiếng Melynlas hí vang, và cậu thấy như có một người nào khác vừa nhảy vào tham chiến. Đến lúc cậu lảo đảo đứng lên được thì đám kỵ mã đã biến mất, lôi Melynlas theo chúng.
Taran, kêu lên vì kinh hoàng và giận dữ, loạng choạng chạy về phía con đường chúng đã đi. Một bàn tay to lớn nắm lấy vai cậu. Cậu quay phắt lại và thấy một người đàn ông mặc chiếc áo choàng không tay bằng len thô, sợi dây bện buộc ngang lưng. Hai cánh tay trần của ông xương xẩu gân guốc, và lưng ông còng xuống, vì lao lực nhiều hơn là vì tuổi tác. Một mớ tóc ngả bạc để dài xõa quanh khuôn mặt nghiêm nghị nhưng không phải là không hiền hậu của ông.
“Từ từ, từ từ đã,” người đàn ông nói. “Giờ thì cháu không thể đuổi kịp chúng được. Con ngựa của cháu sẽ không bị làm hại đâu. Bọn tay sai của Ông hoàng Goryon đối xử với ngựa tốt hơn với người.” Ông vỗ vỗ lên chiếc gậy gỗ sồi cầm trong tay. “Hai tên trong đám lính của Goryon sẽ phải chữa cho lành cái đầu của chúng đây. Nhưng có vẻ là cháu cũng vậy, theo vẻ bề ngoài của cháu.” Ông xách lên một cái túi và vắt nó lên vai. “Ta là Aeddan Con Trai của Aedd,” ông nói. “Đi theo ta nào, cả hai cháu. Trại của ta nằm cách đây không xa lắm.”
“Không có Melynlas thì cuộc hành trình của cháu sẽ thất bại mất,” Taran kêu lên. “Cháu phải đi tìm...” Cậu im bặt. Lời chế nhạo của bọn lính vẫn còn giày vò cậu, và cậu ngần ngừ không muốn nói ra nhiều hơn những gì cần thiết, ngay cả với người đàn ông đã giúp đỡ cậu này.
Nhưng người nông dân không tỏ vẻ muốn hỏi han gì. “Điều cháu tìm kiếm,” Aeddan đáp lại, “là việc của cháu chứ không phải của ta. Ta thấy năm kẻ xông vào tấn công có hai người và chỉ giúp một tay góp phần làm cho trận đánh thêm cân bằng mà thôi. Cháu có muốn chữa lành vết thương của mình không? Nếu có thì hãy đi theo ta.”
Nói đoạn, người nông dân bước xuống sườn đồi, Taran và Gurgi theo sau. Gurgi cứ chốc chốc lại quay lại để dứ dứ nắm tay về phía những tên kỵ sĩ đã phóng đi, trong khi Taran bước dọc lối đi đang tối dần lại, không nói một lời nào, chìm trong nỗi tuyệt vọng vì mất Melynlas, và cay đắng nghĩ rằng cậu chẳng làm được gì trong cuộc hành trình, ngoài việc để mất con ngựa của mình và bị vỡ đầu. Xương khớp cậu nhức nhối; các bắp cơ của cậu đau như dần. Mọi việc càng thêm tồi tệ khi những đám mây kéo đến dày đặc hơn; màn đêm buông xuống cùng với một trận mưa như trút nước; và khi đến được trang trại của Aeddan thì Taran mình mẩy đã ướt lướt thướt và đẫm bùn hết mức trong đời cậu.
Ngôi nhà mà Aeddan dẫn hai người bạn đến chỉ là một căn lều bằng phên trát đất, nhưng Taran ngạc nhiên thấy nó rất ấm cúng và tiện nghi. Trong những cuộc phiêu lưu trước kia của mình, cậu chưa bao giờ được hưởng lòng hiếu khách của những người nông dân xứ Prydain, và cậu nhìn quanh ngơ ngác như một người khách lạ trên vùng đất mới mẻ. Giờ khi đã nhìn kỹ hơn Aeddan, cậu nhận ra vẻ trung thực và nhân hậu trên gương mặt dãi dầu mưa nắng của ông. Người nông dân niềm nở cười với cậu, và Taran, bất kể những vết thương đang nhức nhối, cười đáp lại, cảm thấy mình rốt cuộc cũng đã tìm được một người bạn.
Bà vợ của người nông dân, một phụ nữ cao lớn, chai sạn tần tảo, nét mặt cũng đầy nếp nhăn như chồng mình, giơ tay lên trời khi thấy Gurgi với bộ lông rối bù nhỏ nước tong tỏng, bám đầy cành khô và lá thông, rồi kêu lớn khi thấy gương mặt đầy máu của Taran. Trong khi Aeddan kể về trận đánh; thì vợ ông, Alarca, mở chiếc rương gỗ và lấy ra một tấm áo khoác dày dặn ấm áp, mặc nhiều đã sờn cả nhưng được âu yếm vá lại cẩn thận. Taran đón lấy nó một cách biết ơn, để mặc thay cho bộ quần áo ướt đẫm của mình.
Alarca bắt đầu trộn các thứ thảo mộc để nấu một liều thuốc chữa các vết thương, và trong lúc đó thì Aeddan đổ các món trong túi của mình lên bàn: những khoanh bánh mì, một tảng phomát và mấy thứ quả khô.
“Các cháu sẽ không được thoải mái cho lắm đâu,” ông nói. “Đất đai của ta không sinh lợi nhiều, vì vậy hàng ngày ta phải làm thuê trên đồng của những người hàng xóm để kiếm những gì ta không thể tự trồng trọt được.”
“Vậy mà,” Taran nói, đau buồn khi nghe về cảnh ngộ của Aeddan, “cháu đã được nghe kể là đất đai ở các vương quốc Thung Lũng này màu mỡ lắm.”
“Trước kia thì đúng là như vậy,” Aeddan đáp với một nụ cười khắc khổ. “Vào thời của tổ tiên ta kia, chứ không phải là thời của ta. Cũng như các Vương Quốc Sơn Dã nổi tiếng vì giống cừu lông dài của họ, thì các Vương Quốc Thung Lũng ở Ystrad lại nổi tiếng vì thứ yến mạch và lúa mạch tốt nhất, và chính vương quốc Cantrev được biết đến bởi giống lúa mì vàng rực, nặng trĩu như những hạt vàng vậy. Hẳn đó là những ngày vàng son ở Prydain này,” Aeddan nói tiếp, cắt bánh mì và phomát ra thành từng phần rồi chia cho Taran và Gurgi. “Ông nội ta kể lại một câu chuyện, mà khi ông nghe được thì cũng đã xa xưa lắm rồi, về những chiếc cày tự kéo lấy, những lưỡi hái tự gặt lúa mà không cần con người động tay vào.”
“Chuyện đó cháu cũng đã được nghe,” Taran nói. “Nhưng Arawn Chúa Tể của Tử Địa đã đánh cắp những báu vật ấy, và giờ chúng bị giấu kín gi a thành lũy của Annuvin, không được ai sử dụng.”
Người nông dân gật đầu. “Bàn tay của Arawn đã cướp đi sự sống khỏi Prydain. Bóng đen của hắn đã tàn phá vùng đất này. Công việc của chúng ta trở nên cực nhọc hơn, và lại càng thêm cực nhọc bởi chúng ta không có nhiều hiểu biết. Arawn đã đánh cắp những công cụ thần kỳ ư? Còn có rất nhiều bí mật để khiến cho đất đai sản sinh ra nhiều hoa lợi, và Chúa tể Annuvin cũng đã cướp chúng khỏi tay chúng ta.”
“Hai năm liền, ta chịu mất mùa,” Aeddan nói tiếp, trong khi Taran lắng nghe với vẻ quan tâm chân thành. “Vựa lúa của ta trống rỗng. Và ta càng phải làm thuê cho người khác bao nhiêu thì lại càng có ít thời gian để làm việc trên đất đai của chính mình bấy nhiêu. Ngay cả nếu có thì giờ thì ta cũng hiểu biết quá ít. Những điều ta cần hơn cả thì đã vĩnh viễn bị khóa chặt trong kho báu của Annuvin rồi.”
“Đâu phải là ông không lành nghề,” Alarca nói, đặt một bàn tay lên bờ vai xương xẩu của người nông dân. “Trước vụ mùa đầu tiên thì con bò đực kéo cày và bò cái bị ốm rồi chết. Còn vụ mùa thứ hai,” bà hạ giọng xuống. “Vụ mùa thứ hai thì chúng ta không có sự giúp đỡ của Amren.”
Taran dò hỏi liếc nhìn bà, mắt bà đã mờ cả đi.
Bà nói, “Amren, con trai của chúng ta. Nó cũng trạc tuổi cháu, và chiếc áo cháu đang mặc là của nó đấy. Giờ thì thằng bé không cần nữa. Đông cũng như hè, với nó là như nhau cả. Nó đang nằm dưới một nấm mồ giữa những chiến binh đã ngã xuống khác. Phải, nó đã mất,” người phụ nữ thêm vào. “Nó đi cùng với một đội quân để chống trả những kẻ xâm lăng đã đến định cướp bóc chúng ta.”
“Cháu xin chia sẻ nỗi đau của hai bác,” Taran nói. Rồi, để an ủi bà, cậu nói thêm, “Nhưng cậu ấy đã hy sinh trong vinh quang. Con trai của hai bác là một vị anh hùng...”
“Con trai của chúng ta đã bị giết,” người phụ nữ gay gắt đáp lại. “Bọn xâm lăng chiến đấu vì chính chúng cũng đang chết đói; còn chúng ta chiến đấu vì chúng ta cũng chẳng có hơn chúng là bao. Và cuối cùng thì cả hai bên đều có ít hơn so với khi cuộc chiến bắt đầu. Giờ thì với chúng ta, công việc đồng áng quá nặng nề đối với một đôi tay, hay thậm chí hai đôi tay đi nữa. Những bí mật mà Arawn Chúa Tể của Tử Địa đã ăn cắp đáng ra giúp được cho chúng ta rất nhiều. Nhưng than ôi, chúng ta sẽ không bao giờ có được chúng.”
“Không sao. Ngay cả khi không có những bí quyết ấy thì năm nay chúng ta cũng không thể mất mùa được,” Aeddan nói. “Tất cả đất đai của ta đã thành đất hoang cả, trừ một cánh đồng duy nhất; nhưng trên cánh đồng ấy, ta đã dồn hết mọi sức lực.” Ông kiêu hãnh nhìn Taran. “Khi hai vợ chồng ta không còn kéo cày được nữa, ta xới đất bằng tay và gieo từng hạt thóc một.” Người nông dân cất tiếng cười. “Phải, và nhổ từng lá cỏ một, chi li như một bà già chăm sóc luống thảo mộc ưa thích của mình vậy. Nó sẽ không bị mất mùa. Nó không thể mất mùa được,” ông nói thêm, mày nhíu lại. “Kế sinh nhai của chúng ta phụ thuộc cả vào nó.”
Sau đó không ai nói gì nữa, và khi bữa ăn đạm bạc kết thúc, Taran vui sướng được duỗi dài những khớp xương đau nhức của mình bên bếp lò, trong khi Gurgi cuộn tròn bên cạnh cậu. Sự mệt mỏi át cả nỗi tuyệt vọng vì đã để mất Melynlas, và trong khi mưa rơi tí tách trên mái tranh và những hòn than hồng kêu lách tách trong lò, Taran nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Hai người bạn thức giấc trước lúc bình mình, nhưng Taran thấy Aeddan đã ra đồng làm việc. Mưa đã tạnh, để lại mặt đất tươi mới và ẩm ướt. Taran quỳ xuống và vốc lấy một nắm. Aeddan nói đúng. Lớp đất đã được cày vỡ hết sức cẩn thận, Taran ngắm người nông dân với lòng kính trọng và thán phục mỗi lúc một tăng. Quả thực, trang trại có thể sẽ thu được một vụ mùa tốt, và Taran đứng một lúc, nhìn về phía khoảng đất hoang, trơ trụi vì không có bàn tay chăm sóc. Với một tiếng thở dài cậu nhanh chóng quay đi, ý nghĩ của cậu lại trở về với Melynlas.
Làm cách nào để giành lại được con tuấn mã bờm bạc thì Taran không biết trước, nhưng cậu quyết tâm đi đến pháo đài của Ông hoàng Goryon, nơi mà theo như Aeddan đoán chắc thì những tên lính đã đem con ngựa tới. Mặc dù lo lắng hơn bao giờ hết cho con tuấn mã thân yêu của mình, sáng hôm đó Taran vẫn làm việc bên cạnh Aeddan. Hai vợ chồng người nông dân chỉ giữ lại một chút ít phần thức ăn tối qua cho bản thân mình, và Taran thấy không có cách nào khác để trả ơn họ. Nhưng đến trưa, thì cậu không dám chần chừ thêm nữa, và chuẩn bị để lên đường.
Alarca đã đến đứng ở cửa lều. Cũng như ông chồng, bà không hỏi gì hơn những điều Taran tự kể về cuộc hành trình của cậu, nhưng giờ bà hỏi, “Cháu vẫn muốn đi theo con đường của riêng mình sao? Cháu đã rời khỏi quê hương và gia đình mình sao? Có trái tim người mẹ nào đang mong chờ con trai mình cũng như tim ta đang mong chờ con ta không?”
“Than ôi, cháu không biết người mẹ nào cả,” Taran trả lời, gấp chiếc áo của Amren lại và nhẹ nhàng đặt nó vào tay bà. “Và cũng không có người mẹ nào biết đến cháu.”
“Cháu đã được dạy dỗ rất tốt để làm việc đồng áng,” Aeddan nói. “Nếu cháu muốn tìm một nơi sẵn sàng chào đón cháu thì cháu đã tìm được rồi đấy.”
“Cho dù cháu có tìm được nơi nào khác sẵn sàng đón chào mình thì cháu cũng mong là họ được cởi mở như hai bác,” Taran đáp lại, và cậu cùng Gurgi nói lời từ biệt, không phải là không có phần tiếc nuối.
Hết chương 2. Mời các bạn đón đọc chương 3!