Tài liệu: Đỗ Phủ (712 - 770)

Tài liệu
Đỗ Phủ (712 - 770)

Nội dung

ĐỖ PHỦ

(712 - 770)

 

            Tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng, vốn quê ở Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc sau tổ phụ dời xuống ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam. Đi thi không đỗ nên chỉ giữ chức quan nhỏ. Khi có loạn An Lộc Sơn, ông chạy theo Vua nên được cử làm giám quan. Sau vì bất mãn ông xin từ quan về Tần Châu, Thành Đô. Không bao lâu, ở Tứ Xuyên có sự rối loạn, ông phải đưa ra đình di cư từ Tứ Xuyên qua Hồ Bắc, Hồ Nam, cuối cùng mất ở Lỗi Dương.

            Ông có để lại Đỗ Lăng tập gồm khoảng 1.400 bài làm theo các thể ngũ ngôn, thất ngôn, cổ thể, cận thể đều rất xuất sắc. Đời nào cũng lấy làm mẫu mực để học tập.

            Ông là bạn của Lý Bạch. Tên tuổi hai người gắn liền với nhau nhưng tính tình, phong cách, tư tưởng, thân thế đều không có mấy điểm giống nhau.

            1. NGUYỆT DẠ

Kim dạ Phu Châu nguyệt

Khuê trung chỉ độc khan.

Dao liên tiểu nhi nữ,

Vị giải ức Tràng An.

Hương vụ vân hoàn thấp,

Thanh huy ngọc tý hàn.

Hà thời ỷ hư hoảng.

Song chiếu lệ ngân can?

            Dịch nghĩa:

            ĐÊM TRĂNG SÁNG

Đêm nay vầng trăng sáng ở Phu Châu

Trong phòng the chỉ có một người đang ngắm.

Lòng thương con cái nhỏ ở xa,

Chưa biết nhớ người cha ở Trường An.

Sương móc đượm hương thơm làm ướt mái tóc mây.

Ánh trăng trong sáng làm giá lạnh cánh tay ngọc.

Bao giờ lại được cùng tựa bên rèm cửa sổ.

Để cho trăng chiếu làm ráo được ngấn lệ của đôi ta.

            Dịch thơ:

            ĐÊM SÁNG TRĂNG

Châu Phu này lúc Trăng soi,

Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.

Đoái thương thơ dại đầu xanh,

Tràng An chửa biết đem tình nhớ nhau.

Sương xa thơm ướt mái đầu,

Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.

Bao giờ tựa bức màn không,

Gương soi chung bóng lệ ròng sương khô.

TẢN ĐÀ

***

            ĐÊM TRĂNG

Đêm nay trăng sáng Phu Châu,

Mình em một bóng lên lầu ngắm trăng.

Xót xa bé gái măng non,

Biết đâu nỗi nhớ Tràng An lúc này.

Sương thơm ướt mái tóc mây,

Trăng thanh lạnh giá đôi tay ngọc ngà.

Ngày nào tựa cửa đôi ta,

Trăng soi đáy mắt lệ đà cạn khô?

L.D.T

            2. TUYỆT CÚ

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu

Nhất hàng bạch lộ thuớng thanh thiên.

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.

            Dịch nghĩa:

Hai con hoàng anh hót trong hàng liễu biếc.

Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh.

Song cửa ngậm tuyết núi Tây Lĩnh đã từ nghìn năm.

Ngoài cổng đậu những con thuyền của Đông Ngô xa tới muôn dặm.

            Dịch thơ:

            TUYỆT CÚ

Hai cánh oanh vàng kêu liễu biếc,

Một đàn cò trắng vút trời xanh.

Nghìn năm tuyết, núi, sông in sắc,

Vạn dặm thuyền Ngô bến rập rình.

Ngày nay, số 97

13 – 2 – 1938

TẢN ĐÀ

***

Liễu xanh hót cặp oanh vàng,

Trời lam trắng điểm một hàng cò bay.

Song lồng mái tuyết non Tây,

Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài.

TƯƠNG NHƯ

            3. TRUNG THU

Thu cảnh kim tiêu bán,

Thiên cao nguyệt bội minh.

Nam lâu thùy yến thưởng,

Ty trúc tấu thanh thanh.

            Dịch nghĩa:

            TIẾT TRUNG THU

Cảnh Thu tới đêm nay vừa được nửa,

Trời cao trăng sáng bội phần.

Ai yến tiệc ở lầu Nam,

Tiếng tơ, tiếng trúc vang lên trong trẻo.

            Dịch thơ:

Cảnh Thu nay đúng nửa rồi,

Trăng Thu thêm sáng, khung trời thêm cao.

Lầu nam ai rót rượu đào,

Tiếng tơ, tiếng trúc, thanh tao nhịp nhàng.

THÁI GIANG

            4. THẬP THẤT DẠ ĐỐI NGUYỆT

Thu nguyệt nhưng viên dạ,

Giang thôn độc lão thân.

Quyển liêm hoàn chiếu khách,

Ỷ trượng cánh tùy nhân.

Quang xạ tiềm cầu động,

Minh phiên túc điểu tần.

Mao trai y quất dữu.

Thanh thiết lộ hoa tân.

            Dịch nghĩa:

            NGẮM TRĂNG ĐÊM MƯỜI BẢY

Trăng thu đêm nay vẫn tròn.

Thần già côi quạnh ở xóm bên sông.

Cuốn rèm, trăng còn ngó khách,

Chống gậy trăng vẫn theo mình.

Ánh rọi xuống, làm con cầu long đã lặn phải cựa quậy,

Bóng sáng soi vào, khiến con chim ngủ xoay mình luôn.

Lều tranh dựa bên dãy cây quýt cây bưởi,

Đêm lạnh hạt móc mới đọng như hoa.

            Dịch thơ:

Vàng vạnh trăng Thu chút chửa sai,

Xóm sông lụ khụ một mình ai.

Cuốn rèm trông thấy như chào lão,

Chống gậy ra chơi lại đón người.

Soi suốt rồng nằm dòng nước chảy,

Sáng choang chim ngủ bóng cành phơi.

Nhà tranh ngồi tựa bên chồi quýt,

Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời.

TRẦN TẾ XƯƠNG

            5. LỮ DẠ THƯ HOÀI

Tế thảo vi phong ngạn,

Ngụy tường độc dạ chu

Tinh thùy bình dã khoát,

Nguyệt dũng đại giang lưu

Danh khởi văn chương trứ?

Quan ưng lão bệnh hưu

Phiêu phiêu hà sở tự?

Thiên địa nhất sa âu.

            Dịch nghĩa:

Gió nhẹ đưa ngon cỏ ở bên bờ,

Ban đêm, cột buồm đứng lẻ loi.

Những ngôi sao sà xuống cánh đồng mênh mông,

Ánh Trăng trên sông lớn, nước tung tóe.

Danh tiếng há phải do văn chương mà lững lẫy?

Làm quan đến khi già bệnh ắt nên về hưu.

Thân ta chơi với giống cái gì nhỉ?

Giữa đất trời, thân ta giống như con chim âu một mình trên bãi cát!

Dịch thơ:

NỖI NIỀM ĐÊM ĐẤT KHÁCH

Hơi gió nhẹ, cỏ bờ phơ phất,

Chiếc thuyền đêm ngất cột buồm cao.

Đồng xa liền với trời sao,

Dòng sông trăng tỏa ào ào nước trôi.

Văn chương chẳng cho đời nhắc nhỏm,

Một chức quan già ốm thì hưu!

Lênh đênh nào khác chi đâu,

Giữa vòng trời đất chim âu một mình.

HOÀNG TẠO

            6. ĐĂNG NHẠC DƯƠNG LÂU

Tích văn Động Đình thủy

Kim thướng Nhạc Dương lâu.

Ngô, Sở Đông Nam cách,

Càn, Khôn nhật dạ phù.

Thân bằng vô nhất tự,

Lão bệnh hữu cô chu.

Nhung mã quan sơn Bắc.

Bằng hiên thế tứ lưu.

            Dịch nghĩa:

            LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG

Xưa nghe nói nước Hồ Động Đình.

Nay mới lên Lầu Nhạc Dương.

Hồ chia bên Đông là nước Ngô, bên Nam là nước Sở.

Bóng trời mây, mặt đất đêm ngày nổi trên mặt nước.

Bà con bạn hữu không có một chữ thư từ qua lại.

Lúc già yếu bệnh hoạn chỉ có một chiếc thuyền lẻ loi, cô quạnh.

Giặc giã đương đe dọa ở cửa ải phương Bắc.

Tựa hiên, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng.

            Dịch thơ:

            LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG[1]

 

Động đình nghe tiếng từ xưa,

Nhạc Dương lâu mới bây giờ lên chơi.

Đông Nam Ngô, Sở chia hai,

Ngày đêm như thấy đất trời mênh mang,

Người quen, một chữ vắng tanh,

Tuổi già, mình ốm lênh bênh chiếc thuyền.

Quan san cõi Bắc giặc tràn,

Mái hiên đứng tựa, giụa giàn giọt rơi.

Ngày nay, số 87

28 – 7 – 1937

TẢN ĐÀ

            7. TẶNG VỆ BÁT XỬ SỸ

Nhân sinh bất tương kiến,

Động như Sâm dữ Thương,

Kim tịch phục hà tịch?

Cộng thử đăng chúc quang!

Thiếu trang năng kỷ thì,

Mấn phát các dĩ thương!

Phỏng cựu bán vi quỷ,

Kinh hô nhiệt trung trường.

Yên tri nhị thập tải,

Trùng thướng quân tử đường.

Tích biệt quân vị hôn,

Nhi nữ hốt thành hàng.

Di nhiên kính phụ chấp,

Vấn ngã lai hà phương?

Vấn đáp nãi vị dĩ,

Khu nhi la tửu tương.

Dạ vũ tiễn xuân cửu,

Tân xuy gián hoàng lương.

Chủ xương hội diện nan,

Nhất cử lũy thập trường.

Thập trường diệc bất túy,

Cảm tử cố ý trường.

Minh nhật, cách sơn nhạc,

Thế sự lưỡng mang mang!

            Dịch nghĩa:

            TẶNG ẨN SỸ TÁM VỆ[2]

Người đời khó được gặp nhau,

Khác nào sao Hôm và sao Mai.

Đêm nay là đêm gì?

(Chúng ta) lại được chung bóng dưới ánh đèn.

Trẻ trung nào được mấy độ,

(Bây giờ) đầu tóc đã đốm bạc cả!

Thăm hỏi những cố cựu, một nửa đã ra ma rồi!

Kinh hãi la lên, lòng như lửa đốt.

Dè đâu đã hai mươi năm,

(Nay mới) lại bước tới nhà anh.

Trước kia, lúc từ biệt, anh chưa kết hôn,

Giờ đây đã đầy đàn con cái.

Niềm nở, chúng kính chào người bạn của cha.

Hỏi tôi từ đâu đến?

Kẻ hỏi, người đáp, còn đang tíu tít,

Thì anh đã giục các con dọn cơm rượu rồi.

Dưới làn mưa đêm Xuân (người ta) đi cắt tỏi.

Cơm nếp mới trộn kê vàng.

Chủ nhân nói: Chả mấy khi gặp nhau

(Nào), uống đi, uống đi hàng mươi chén.

Mươi chén cũng chưa say,

Vì cảm mối tình cố cựu man mác dài.

Ngày mai chia tay, núi non cách trở,

Việc đời, đôi ngả mênh mang.

            Dịch thơ:

Đời người chẳng gặp nhau ra,

Sâm, Thương những tưởng như là đôi sao.

Đêm nay thử hỏi đêm nào?

Ánh đèn ánh nến soi vào cùng chung?

Tóc đầu bạc cả! Này trông!

Được bao nhiêu lúc trẻ trung mà già?

Bạn xưa quá nửa ra ma!

Ngẫm vào sốt ruột, nói ra giật mình!

Ai ngờ lại đến nhà anh?

Hai mươi năm đã bất tình đi mau!

Xưa đi, anh đã vợ đâu?

Gái trai nay đã lau nhau đầy nhà!

Ân cần chào hỏi bạn cha,

Rằng. “Thưa bác ở đâu mà lại đây?”

Chưa xong câu chuyện thơ ngay,

Món ăn chúng đã sắp bày dâng ra.

Mưa Xuân đêm hái hẹ hoa,

Gạo thơm mới thổi lại pha kê vàng.

Bạn rằng: “Gặp gỡ chẳng thường”.

Rượu mời mươi chén rót thường luôn tay.

Dẫu mười chén cũng chưa say,

Tình anh nặng khiến rượu này nhẹ không!

Ngày mai cách núi cách sông,

Chuyện đời thôi lại mịt mùng đôi nơi.

N.T

            8. XUÂN VỌNG

Quốc phá, sơn hà tại

Thành Xuân, thảo mộc thâm.

Cảm thời, hoa tiễn lệ,

Hận biệt, điểu kinh tâm.

Phong hỏa liên tam nguyệt.

Gia thư để vạn câm (kim).

Bạch đầu tao cánh đoản,

Hồn dục bất thăng trâm!

            Dịch nghĩa:

TRÔNG XUÂN

Nước bị tàn phá[3] nhưng sông núi vẫn còn,

Thành về mùa Xuân, cỏ cây chìm trong âm u.

Cảm thời thế, hòa đầm nước mắt!

Đau biệt ly, chim khắc khoải lòng!

Lửa hiệu liên miên đến ba tháng [4]

Thư nhà, đáng bạc muôn.

Đầu bạc, càng gãi tóc càng ngắn,

Dường không còn cài nổi cái trâm nữa!

Dịch thơ:

Nước mất, còn sông núi,

Thành Xuân cảnh um tùm.

Biệt ly, lòng chim hãi,

Cám cảnh, lệ hoa tuân.

Lửa hiệu liền ba tháng,

Thư nhà đáng mấy muôn.

Gãi hoài cùn tóc bạc,

Chừng tuột chiếc trâm luôn.

TƯƠNG NHƯ

            8. GIANG MAI

Mai nhụy lạp tiền phá,

Mai hoa niên hậu đa.

Tuyệt tri Xuân ý hảo.

Tối nại khách sầu hà.

Tuyệt thụ nguyên đồng sắc,

Giang phong diệc tự ba.

Có viên bất khả kiến,

Vu tụ uất ta nga.

            Dịch nghĩa:

            CÂY MAI BÊN SÔNG

Tháng chạp nhụy mai vừa hé,

Sang năm hoa mai nở nhiều,

Vẫn biết ý Xuân xinh đẹp,

(Nhưng) nỗi buồn của khách biết nài sao!

Cây với tuyết vốn cùng một sắc,

Gió trên sông, sóng nổi nhấp nhô.

Vườn cũ đâu còn thấy?

Núi Vu cao ngất, một màu xanh om!

           

 

Dịch thơ:

Trước ngày Chạp nhị mai vừa mới lá,

Qua sang năm mai nở đã đầy cành.

Vẫn biết rằng Xuân ý tốt xinh xinh,

Nhưng dạ khách buồn tênh sao biết kể!

Cây với tuyết nguyên cùng một vẻ,

Gió trên sông gợn sóng vẽ nhô đầu.

Cố viên nào thấy đâu đâu,

Núi Vu chót vót một màu xanh om.

Á NAM

            9. THU HỨNG

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cú lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

            Dịch nghĩa:

THU HỨNG I

Hạt móc trắng làm cho rừng cây phong tiêu điều,

Núi Vu, kẽm Vu hơi Thu hiu hắt.

Trong lòng sông, sóng nhảy tận lưng trời,

Trên cửa ải, mây đùn tiếp với mặt đất.

Khóm cúc nở hoa, từ độ ấy đã hai lần làm rơi nước mắt.

Nỗi lòng quê cũ, buộc mãi với con thuyền quạnh hiu.

Lo áo rét, chỗ nào dao thước cũng rộn ràng,

Thành Bạch Đế[5] cao vút, tiếng nện vải về chiều nghe càng mau.

            Dịch thơ:

            HỨNG THU I

Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hưu hắt khí thu lòa.

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ai xa.

Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.

Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

NGUYỄN CÔNG TRỨ

II

Vãn đạo Trường An tự dịch kỳ

Bách niên thế sự bất thăng bi!

Vương hầu đệ trạch giai tân chủ,

Văn vũ y quan dị tích thì.

Trực Bắc quan sơn kim cổ chấn,

Chinh Tây xa mã vũ thư trì!

Ngư long tịch mịch Thu giang lãnh,

Cố quốc bình cưu hữu sở ti (tư)

            Dịch nghĩa:

            HỨNG THU II

Nghe nói tình hình Trường An biến chuyển như cuộc cờ,

Trăm năm cuộc đời biết bao đau xót.

Nhà cửa vương hầu đều đổi chủ mới,

Áo mũ văn võ khác hẳn thời xưa.

Quan san Trục Bắc[6] vang động tiếng trống, tiếng chiêng,

Cuộc chinh Tây[7] đang nhộn nhịp ngựa xe, tờ hịch có cài lông gà truyền đi tới tấp.

(Ở Quỳ Phủ đây) sông Thu lạnh lẽo, rồng cá im lìm,

Lòng lại nhớ đến nơi cố đô Trường An ngày trước.

            Dịch thơ:

            HỨNG THU II

Nghe nói Trường An tựa cuộc cờ,

Trăm năm thế sự xót xa chưa?

Lâu đài nếp cũ người trông mới,

Áo mũ triều nay kiểu khác xưa.

Canh Bắc ải quan rền trống gióng

Dẹp Tây xe ngựa rộn tin đưa.

Cá rồng tịch mịch, sông Thu lạnh,

Nước cũ bình yên, chạnh mối tơ.

K.G

            10. ĐĂNG CAO

Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,

Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,

Bất tận Trường Giang cổn cổn lai.

Vạn lý bi Thu trường tác khách,

Bách niên đa  bệnh độc đăng đài.

Gian nan khổ hận phồn sương mấn,

Lạc đảo tân đình trọc tửu bôi.

            Dịch nghĩa:

LÊN CAO

Gió thốc, trời cao tiếng vượn kêu rầu rĩ,

Bến nước trong, làn cát trắng, chim bay liệng vòng.

Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc,

Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi.

Muôn dặm Thu buồn, xót thân thường nơi đất khách,

Suốt đời quặt quẹo, một mình lên ngắm trên đài,

Gian khổ uất hận, mái tóc thêm ngả màu sương,

Lận đận vì mang nhiều bệnh mới phải ngừng chén rượu đục.

            Dịch thơ:

Gió gấp trời cao vượn nỉ non,

Bến trong cát trắng, lượn chim cồn.

Rào rào lá trút rừng cây thẳm,

Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn.

Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não,

Đài cao trăm bệnh chiếc thần mòn.

Gian nan khổ hận đầu thêm bạc,

Quặt quẹo đành khiêng chén giải buồn.

NAM TRÂN

            11. NHẬT MỘ

Ngưu dương hạ lai cửu,

Các dĩ bế sài môn.

Phong nguyệt tự thanh dạ,

Giang sơn phi cố viên.

Thạch tuyền lưu ám bích,

Thảo lộ trích thu căn.

Đầu bạch đăng minh lý,

Hà tu hoa tẫn phồn?

            Dịch nghĩa:

            CHIỀU HÔM

Đàn trâu và dê xuống núi đã lâu,

Mọi người đều đóng kín cửa sài.

Đêm thanh tĩnh đầy thú gió trăng,

Sông núi khác xa nơi quê cũ.

Suối ghềnh đá chảy bên sườn non ẩn khuất,

Hạt sương đầu cỏ rỏ xuống gốc cây mùa Thu.

Đầu đã bạc phơ dưới ánh đèn sáng,

Cần gì hoa đèn nở ra nhiều[8]

            Dịch thơ:

            CHIỀU HÔM

Trâu dê về đã lâu rồi,

Cửa sài khép kín bóng người vắng tanh.

Đêm nay gió mát trăng thanh,

Non sông đất khách động tình cố hương.

Suối đâu vách núi mơ màng,

Sương thu thấm rễ cỏ hoang rầu rầu.

Đèn soi trắng toát mái đầu,

Hoa đèn khéo cợt chi nhau nở nhiều.

HỒNG MỄ TỬ

            12. THIÊN MẠT HOÀI LÝ BẠCH

Lương phong khởi thiên mạt,

Quân tử ý như hà?

Hồng nhạn kỷ thời đáo,

Giang hồ Thu thủy đa.

Văn chương tăng mệnh đạt,

Ly vị hỷ nhân qua.

Ưng cộng oan hồn ngữ,

Đầu thư tặng Mịch La.

            Dịch nghĩa:

            CUỐI TRỜI[9] NHỚ LÝ BẠCH

Cuối trời gió lạnh bốc lên rồi,

Ý người quân tử lúc này ra sao?

Chim hồng, chim nhạn bao giờ đến?

Sông hồ nước Thu tràn đầy.

Văn chương ghét người gặp vận,

Ma quỷ thích trêu người đi qua!

Để nói chuyện với hồn người thác oan,

Có lẽ (bác) ném thư xuống sông Mịch La[10]

            Dịch thơ:

Bên trời nổi gió lạnh,

Quân tử nghĩ sao đây?

Hồng nhạn bao giờ đến?

Sông biển nước thu đầy.

Văn chương ghen gặp vận,

Ma quỷ thích trêu người.

Cùng oan hồn nói chuyện,

Sông Mịch chuyển thư này.

            13. ĐẢO Y

Diệc tri thú bất phản,

Thu chí, thức thanh châm.

Dĩ cận hàn khổ nguyệt,

Huống kinh trường biệt tâm.

Ninh từ đảo y quyện,

Nhất ký tái viên thâm.

Dung tận khuê trung lực.

Quân văn không ngoại âm.

            Dịch nghĩa:

            NỆN ÁO

Cũng biết người đi thú không trở về,

Mùa thu đến, vẫn cứ lau sạch tảng đá (để giặt).

Đã gần đến tháng rét dữ,

Huống chi lại vì tấm lòng ly biệt từ lâu.

(Cho nên) chẳng quản nện áo nhọc mệt,

Để gửi ra nơi đồn ải xa xăm.

Dùng hết sức người phòng khuê,

Để chàng nghe được tiếng vang vượt qua khoảng không ngăn cách.

            Dịch thơ:

Biết chàng đi thú còn lâu,

Thu về, đá giặt em lau sẵn sàng.

Nay mai cây héo lá vàng,

Luống tình ly biệt kể hàng mấy đông

Áo này giặt chẳng quản công,

Gửi ra ngoài ải những mong kịp ngày,

Phòng khuê xin hết sức này,

Để chàng nghe thoảng tiếng chày canh thâu.

K.D

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                   

 

 

 

           

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1057-02-633389294210190778/Tho-Duong-dinh-cao-cua-ngon-ngu-van-minh-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận