TRẦN TỬ NGANG
(651 - 702)
Tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, Tử Châu (tỉnh Tứ Xuyên). Lúc thiếu thời ông chỉ mải vui chơi săn bắn, đánh bạc. Đến 18 tuổi còn chưa biết đến sách. Sau đi học lại rất chịu khó và đậu Tiến sĩ. Ra làm quan tới chức Hữu thập di rồi xin từ quan trở về quê. Ông bị chết trong tù năm 42 tuổi. Có để lại tập thơ nhan đề là Trần Bá Ngọc tập.
1. CẢM NGỘ
Lan nhược tự xuân hạ,
Thiên uất hà thanh thanh.
U độc không lâm sắc,
Chu nhuy xương tử hành.
Trì trì bạch nhật vãn,
Niểu niểu thu phong sinh.
Tuế hoa tận dao lạc,
Phương ý cánh hà thành!
Dịch nghĩa:
CẢM CẢNH GẶP GỠ
Cây lan, cây nhược trải xuân sang hạ,
Xanh rờn tươi tốt biết nhường nào!
Một mình trơ trọi, nhưng át hết màu sắc trong rừng,
Hoa đỏ tốt tươi vươn trên thân tía.
Ngày trắng nặng nề trôi đã trở về chiều.
Gió Thu hiu hắt sẽ tới.
Hoa khác trong mùa đều tàn tạ hết,
Ý thơm rút lại còn nên trò gì!
Dịch thơ:
Thờ ơ Xuân hết Hè qua,
Chòm lan khóm nhược sao mà xanh xanh!
Rừng không, tươi đẹp một mình,
Cái bông đỏ thắm, cái cành tím tươi.
Lân la ngày bạc muộn rồi,
Gió Thu hiu hắt bên trời thổi qua.
Úa tàn thôi hết mùa hoa,
Ý thơm rút lại còn ra trò gì!
K.D
2. ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương thiên nhi thế hạ
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT LÊN ĐÀI CHÂU ÂU
Trước, chưa gặp người xưa.
Sau, chưa thấy nguời tới.
Nghĩ đến trời đất mênh mang
Riêng mình ngậm ngùi mà rơi nước mắt.
Dịch thơ:
Ngoảnh lại trước người xưa vắng vẻ
Trông về sau quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu,
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.
K.D