NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ - BỘ TIỂU THUYẾT LỪNG DANH -
MỘT THIÊN HÙNG CA BẰNG VĂN XUÔI
“Khi Pháp luật và phong kiến hóa còn đầy đọa con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm, chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích.”
(Hôtovin Haodơ ngày 1 - 1 - 1862)
Những người khốn khổ là một cuốn tiểu thuyết xã hội hiện đại, một thiên anh hùng ca bằng văn xuôi. Victor Hugo diễn tả cuộc đời trăm ngàn khổ cực và tâm hồn vô cùng cao thượng của một người tù khổ sai là Giăng Văn Giăng, và một thiếu phụ bị xã hội tư bản tàn bạo chà đạp là Phăngtin, một trẻ thơ anh hùng là Gavơrốt. Trong cuốn tiểu thuyết vĩ đại này, Hugo đứng hẳn về phía quần chúng, khi mô tả cuộc chiến đấu hùng tráng của nhân dân cần lao Paris nổ dậy năm 1832 chống lại chính quyền phản động lúc bấy giờ.
Những người khốn khổ là một bộ truyện lớn nhất mà cũng là một tác phẩm của giá trị nhất trong sự nghiệp văn chương của Victor Hugo. Ông suy nghĩ về tác phẩm này và viết nó trong ngót ba mươi năm và hoàn thành năm 1861.
Ngay từ năm 1829, Hugo đã có ý định viết một cuốn tiểu thuyết về người tù khổ sai. Sau 1830, Hugo đặc biệt chú ý đến những vấn đề xã hội. Ông nhận thấy kẻ tội phạm, những con người xa đọa về tinh thần, tựu trung cũng chỉ là nạn nhân của xã hội tư bản tàn ác. Ông tin tưởng rằng, những con người ấy có thể cải tạo được bằng đường lối giáo dục nhân đạo. Ông nhận thức được rõ ràng nhiệm vụ cao quý của nhà văn là góp phần cải tạo xã hội, đấu tranh cho tự do, hạnh phúc của loài người.
Cũng vào những năm 1830, trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân lao động, một phong trào viết tiểu thuyết xã hội dâng cao ở Pháp Gióocgiơ Xăng cho ra đời cuốn Lêlia năm 1832; năm 1842, Ơgien Xuy đăng tập truyện Bí mật Thành Paris.
Victor Hugo bắt tay vào công cuộc sưu tầm tài liệu và bắt đầu viết bộ tiểu thuyết này vào năm 1840, thoạt đầu gọi là Những cảnh cùng khổ. Năm 1854, Những cảnh cùng khổ đổi thành Những người khốn khổ. Sau một thời gian gián đoạn, Hugo hoàn thành bộ truyện năm 1861. Đến năm 1862 thì bộ truyện xuất bản đồng thời ở Brruxelles (Bỉ) và ở Paris. Trong bốn tiếng đồng hồ đầu tiên ngày phát hành tập I, đã bán tới 3.500 cuốn.
Những người khốn khổ là bức tranh của cả một xã hội. Nó đề cấp đến những vấn đề lớn lao trong xã hội Pháp đầu thế kỷ XIX, mà cũng là của tất cả các xã hội tư sản. Đó là bản hùng ca của thời đại. Victor Hugo sau khi hoàn thành bộ tiểu thuyết này đã nói: “Quyển truyện này là một trái núi”. Quả thế, “một trái núi”, không những vì số trang của nó mà còn vì những tư tưởng nhân đạo, vì nó ca ngợi đạo đức cao cả của nhân dân lao động, ca ngợi tự do, dân chủ chống lại cường quyền, chống lại áp bức, bóc lột. Đó là lòng thương cảm sâu xa đối với những con người bị chà đạp, lòng tin vào tâm hồn cao thượng của họ. Giăng Van Giăng bị xã hội tư sản bóp nghẹt, chăng lưới bao vây, lùng bắt cho mặc cho xã hội ruồng bỏ. Phăngtin bị xã hội đạp gương sáng của tình mẹ con. Gavơrốt là một đứa trẻ bị vứt trên lề đường Paris vẫn là một tâm hồn thơ ngây, yêu đời, dũng cảm, nghĩa hiệp. Những người khốn khổ còn là một bản phản kháng đối với cái trật tự của xã hội tư sản, nó đè bẹp những người nghèo khổ như một thứ “định mệnh nhân tạo” và biến họ thành con người vì miếng cơm manh áo mà làm tên lính bảo vệ nó, thành những cái máy mù quáng, tàn nhẫn.
Những người khốn khổ là một tác phẩm chan chứa tinh thần lãng mạn. Ông thường dùng phương pháp xây dựng hình tượng to lớn để mô tả những tâm hồn siêu việt, đột biến cao cả trong lòng người, gây các ấn tượng hùng vĩ cho người đọc. Những nhân vật chính diện đều sáng ngời đức hào hiệp, hy sinh.
Những người khốn khổ còn ghi lại nhiều nét hiện thực về xã hội Pháp vào khoảng 1830. Cái xã hội tư sản tàn bạo được phản ánh qua các nhân vật phản diện như Giave, Tênácđiê. Tình trạng cùng khổ của người lao động cũng được mô tả bằng nhiều cảnh thương tâm của một người có công sau trở thành tù phạm, một người mẹ, một đứa trẻ sống trong cảnh khủng khiếp của cuộc đời tối tăm, ngạt thở. Dưới ngòi bút của Hugo, Paris ngày cách mạng 1832 đã sống dậy, tưng bừng, anh dũng, một Paris nghèo khổ nhưng tha thiết yêu tự do.
Ưu điểm lớn nhất của Hugo là khi diễn tả xã hội tư sản, ông không diễn tả một số nhân vật độc ác, tàn nhẫn, vô lương tâm mà ông trình bày chế độ như một thực thể nhất trí trong việc áp bức, bóc lột, ruồng rẫy những người cùng khổ, đè lên người họ như một thứ định mệnh khốc liệt với các thứ công cụ ghê tởm như tòa án, tổ chức cảnh binh, quân đội, nhà tù với báo chí, dư luận, thành kiến, tập quán.
Trong lời nói đầu bộ Những người khốn khổ. Hugo đã nhấn mạnh ý nghĩa sâu xa của tác phẩm. Ông nói rằng trong cái xã hội văn minh ngày nay mà còn những địa ngục đầy đọa con người thì “những quyển sách loại này còn có thê có ích”. Với quan niệm nghệ thuật phục vụ đời sống như vậy, Hugo đã sáng tạo có ý thức một tác phẩm có ảnh hưởng lớn trong công cuộc đấu tranh chung của loài người chống áp bức và bóc lột.
Nhưng cũng như tất cả những người chưa nắm được chủ nghĩa xã hội khoa học, con đường thoát của xã hội mà ông tưởng tượng ra rất là duy tâm, không tưởng. Lý tưởng của ông là làm sao cho con người được như giám mục Mirien quên mình vì kẻ nghèo khổ, như ông Mađơlen (Giăng Văn Giang) kinh doanh công nghiệp để cho thợ có chỗ làm ăn, tiền lời dùng một phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống cho thợ, tổ chức y tế, cứu tế trong xưởng, đề cao thuần phong mỹ tục. Làm sao cho con người trở nên tốt như thế? Ông Mirien toàn thiện là nhờ đức tin, Giăng Văn Giăng trở nên tốt cũng là nhờ sự cảm hóa của chúa, gián tiếp qua ông Mirien. Giăng Văn Giăng là một biểu tượng đẹp đẽ của tư tưởng nhân đạo của con người. Nhưng con đường cải tạo như vô lý. Làm sao giải thích được chỉ một cử chỉ nhân đạo của giám mục Mirien đã dắt dẫn cho con người tối tăm ấy ra ngay chỗ ánh sáng rực rỡ, trong chốc lát biến một anh trộm cướp quen tay thành một con người vì mười chín năm lao lý mà thù hằn xã hội thành ra một con người yêu đời, bác ái; làm sao giải thích được sự biến chuyển đột ngột và triệt để ấy nếu không viện ra lẽ thần bí của chúa?
Tóm lại, dù có một số nhược điểm không lôgic ấy, Những người khốn khổ vẫn là một tác phẩm văn hóa đồ sộ của nhân loại. Nó ra đời đánh dấu những bậc thang tiến hóa của tri thức loài người. Tác phẩm hàm chứa ý nghĩa lớn lao về tính nhân đạo, lòng bác ái bao dung đối với số phận những con người nghèo đói của xã hội. Nó mãi mãi làm rung động lòng người của các thế hệ kế tiếp nhau về tính nhân bản cao cả và một xã hội lý tưởng công bằng bác ái, “Người với người là bạn”. Nó cũng là tiếng chuông cảnh báo, thức tỉnh lương tri loài người hãy làm điều thiện và cảnh giác với tội ác.